Không kể sáng sớm hay chiều tà, từ trong căn nhà ở một cái ngõ nhỏ đường Hoàng Hoa Thám, tôi vẫn thường nhấc máy gọi điện về thôn Đục Khê, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức (Hà Nội) để nhờ nhà thơ, thầy thuốc Đinh Nam Khương hướng dẫn cho cách điều trị bệnh đau thắt lưng và thoái hóa đốt sống cổ của tôi.
Khi chưa gọi điện cho nhà thơ, thầy thuốc Đinh Nam Khương tôi cảm thấy anh ở mãi một vùng quê hẻo lánh, xa xôi lắm. Nhưng khi đã gọi điện cho anh, nghe được giọng anh nồng nhiệt, chân tình, tôi cảm thấy anh không chỉ ở ngay trước mặt mình mà còn gần gũi, thân thiết làm sao!
Chiều nay, khác với mọi khi, gọi điện cho anh không phải để nhờ hướng dẫn cách điều trị bệnh (dẫu bệnh của tôi vẫn chưa thuyên chuyển), mà tôi hỏi thăm công việc viết lách của anh dạo này có gì mới không?
Nếu hằng ngày anh vẫn ngồi bên con dao cầu thái thuốc trị bệnh cứu người và tranh thủ thời gian đam mê trước trang giấy để có những bài thơ mới thì hẳn là lòng tôi vui lắm. Vui vì ở cuộc đời này, có những cựu chiến binh như anh vẫn đang gắng gỏi làm cái công việc rất có ý nghĩa. Mà có ý nghĩa trực tiếp với ngay bản thân tôi, một người đang có bệnh nhưng lại vốn rất yêu thơ. Bởi vậy, nếu hằng ngày anh chỉ lo làm thuốc cứu người mà không cầm bút nữa, hoặc ngược lại, thì hẳn là lòng tôi sẽ mất vui đi một nửa.
Trước khi gọi điện cho anh tôi đã nghĩ ngợi, mường tượng về anh như thế. Và, thật khó diễn tả hết được niềm vui của mình khi tôi nghe thấy đầu dây bên kia anh đang kể về công việc hằng ngày của mình đúng như tôi nghĩ ngợi, mường tượng.
Sớm sớm, chiều chiều, anh mải miết đi trên con đường quê đến bưu điện gửi thuốc phục vụ theo yêu cầu của người bệnh từ nhiều tỉnh, thành phố.
Và rồi những câu thơ từ đâu lại bất chợt đến với anh. Tập bản thảo Ngõ khác của anh mỗi ngày có thêm những bài mới, những tứ mới, những cách thể hiện mới. Đã có hơn 100 bài, đủ sức đứng thành một tập riêng. Dạo mới viết những bài thơ đầu tay, ngòi bút anh thiên về trữ tình, đằm thắm, còn hôm nay, sau khi đã có trong tay 4 tập thơ, thì đến tập thơ mới này, ngòi bút anh thiên về trí tuệ, khám phá những góc khuất của phận con người. Nhưng dù theo thiên hướng nào, thơ anh vẫn là loại thơ dễ nhớ, dễ thuộc, gần gũi với tâm hồn người Việt Nam.
Ngoảnh lại nhìn con đường thơ mà mình đã đi qua, anh không khỏi giật mình. Vậy mà đã hơn 30 năm rồi đấy!
Anh sẽ chọn lựa để làm một tuyển tập thơ cho mình chứ? Nhiều nhà thơ cùng trang lứa với anh, họ đã làm tuyển tập riêng tổng kết đường thơ của mình từ lâu lắm rồi.
Trả lời tôi, anh hào hứng bảo: "Mình đang làm tuyển tập thơ của mình. Mình đã đặt nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo vẽ bìa sách rồi. Tên sách là Gió trăng và đá vàng. Trong số hơn 500 bài thơ mình đã in trên các sách, báo thì mình chọn lấy một nửa để đưa vào tập. Còn một nửa số bài không đưa vào tập, nằm rải rác trên sách, báo thì coi như bạn đọc đã quên. Phần đầu tập sách là ý kiến của khoảng 20 nhà phê bình, nhà thơ, nhà báo, nhận xét, đánh giá về thơ của mình".
Ngắt lời anh, tôi nói, nhiều tuyển thơ, xếp thơ của tác giả trước, phần cuối sách là ý kiến của nhà phê bình nhận xét, đánh giá về thơ của họ. Còn anh lại làm ngược lại, anh có ngại người ta có ý kiến không?
Anh đáp: "Mình chẳng ngại gì cả. Ai ý kiến thế nào thì tùy họ. Mình làm như thế là vì mình rất trân trọng ý kiến của các nhà phê bình, nhà thơ, nhà báo nhận xét, đánh giá về thơ mình. Không có mục đích gì khác đâu! Có thể, sẽ có người cho rằng, mình làm như thế để mượn người khác làm "đẹp" thơ cho mình. Thực ra, thơ Đinh Nam Khương là thơ Đinh Nam Khương, chứ làm "đẹp" thêm thế nào được?".
Tôi lại lựa lời hỏi anh, trong tuyển thơ của mình, anh có giãi bày một đôi điều gì đó tựa như trong phần đầu tập thơ Trên lối đi thời gian của anh in ở Nhà xuất bản Hội Nhà văn năm 2006 không?
Trả lời tôi, anh đọc liền một mạch những điều anh viết trong phần đầu tuyển thơ của mình.
Vẫn là giọng, là chất Đinh Nam Khương: Nhỏ nhẹ! Khiêm nhường! Kín đáo! Kiêu hãnh!
Anh không hề mảy may cho rằng, mình đã có một "sự nghiệp" thơ. Ở đời, anh không được làm quan, làm sếp như ai. Nhưng anh như một người may mắn được làm thầy thuốc và làm thơ. Công việc làm thơ của anh lặng lẽ âm thầm tựa như công việc của người tiều phu dưới chân núi. Sau hơn 30 năm làm thơ, sức lực anh bị vắt kiệt, đến nỗi tưởng như trơ cả những mảnh xương sườn. Nhưng anh vẫn cứ đeo đẳng với thơ, vì ý nghĩa nhân văn của nó: Từ cái tôi đến cái ta, văn chương đồng cảm, chia sẻ được với mọi nỗi niềm của con người. Hướng con người vươn tới cái đẹp, cái cao thượng!
Không ảo tưởng, không bốc đồng coi những bài thơ của mình là một sự dâng hiến, mong mỏi nó có ích như vị gừng trong góc vườn của mọi nhà. Đúng như anh đã tâm sự trong bài thơ "Gừng": Gừng cay!-không phải để ra hoa-Gừng cay!-Không phải để ra quả-Mà cay! Vì một chút hương thơm-Muốn hết mình được dâng hiến.
Trước khi cúp máy, anh đã bảo tôi, gửi cho anh cái bài mà tôi viết về anh để anh trích một đoạn đưa vào tuyển thơ của anh. Lúc đó, tôi cảm thấy mình rất hạnh phúc, vì được anh tin cậy. Tôi nhận lời ngay. Thực ra, đấy là tất cả những gì mà tôi cảm nhận được về anh trong lần đầu tiên gặp gỡ:
"Dưới chân núi chùa Hương là địa phận xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức. Nơi đây không chỉ có một anh hùng quân đội, mà còn có một nhà thơ: Đinh Nam Khương.
Thời trai trẻ, nhà thơ Đinh Nam Khương công tác ở bệnh viện tỉnh Hà Tây, sau đó lên đường nhập ngũ (ở Sư đoàn 312) tham gia chiến đấu giải phóng miền Nam. Năm 1971 rời quân ngũ trở về, anh công tác ở tỉnh nhà (Hà Tây cũ), rồi được đi học khoa Ngữ văn-Đại học Tổng hợp Hà Nội. Thơ đến với anh tự nhiên. Bài thơ đầu tiên anh viết vào năm 1975. Vào những năm 80, được học tập, rèn luyện trong môi trường sinh viên, tâm hồn thơ của anh có "đất" nảy nở. Tập thơ đầu tiên của anh có tên là Phía sau những hạt cát đã được bạn đọc tuổi trẻ đón nhận nồng nhiệt. Hạt cát nhỏ bé thật đấy, nhưng thực ra chẳng nhỏ bé chút nào!
Những tưởng anh sẽ gắn bó mãi với thơ, với sáng tác văn chương, hết năm này đến năm khác. Nhưng vào năm 1992, anh gác bút văn chương, xin cơ quan nghỉ hưu để trở về quê làm thuốc cứu người, sau 10 năm làm phó phòng sáng tác xuất bản của Sở Văn hóa-Thông tin Hà Tây. Anh về làm thuốc do hai nguyên nhân chính: Thứ nhất, ảnh hưởng tư tưởng của đại danh y Hải Thượng Lãn Ông (Lê Hữu Trác): Người ta chỉ vì cái hư danh nên mới phải lụy mình. Chi bằng trốn cái danh đi về làm thuốc giúp đời có phải thú hơn không?; Thứ hai, kế thừa sự nghiệp của bố là thầy thuốc đông y (tên cụ là Đinh Văn Nhuệ, thường gọi là cụ lang Tỉnh; cụ có nhiều bài thuốc thần diệu, được nhân dân địa phương đặt thành vè ca ngợi). Tiếp thu bài thuốc của bố mình, đồng thời bổ sung kiến thức y học hiện đại, anh đã nâng cao những bài thuốc gia truyền trong việc điều trị với mục tiêu để người bệnh khỏi bệnh nhanh chóng. Do có uy tín với nghề, hiện nay, Trung tâm thừa kế ứng dụng đông y Hà Tây mời anh đến khám, chữa bệnh tại Trung tâm. Anh còn được làm Phó chủ tịch Hội Đông y huyện Mỹ Đức, kiêm Chi hội trưởng Chi hội Đông y quê nhà-xã Hương Sơn.
Sau 10 năm lặng lẽ làm thuốc dưới chân núi chùa Hương, nhà thơ, lương y Đinh Nam Khương không hề in bài thơ nào trên báo trung ương và địa phương. Năm 2001, nhà thơ Hữu Thỉnh-Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam về thăm mảnh đất phật Hương Sơn, khuyên anh trở lại với thơ. Anh em làm văn chương vẫn cứ nhắc hoài đến tên anh. Thế rồi, chùm thơ đầu tiên sau 10 năm vắng bóng gồm 3 bài lục bát: Hoa cau, Cõi người, Tìm em giữa chợ của anh đăng trên Báo Văn nghệ được tặng thưởng chùm thơ hay nhất tháng 7 năm 2001 của báo.
Mấy năm nay, hằng ngày bận rộn với công việc làm thuốc, khách đông nhưng vì nỗi đam mê, anh vẫn dành tâm huyết cho văn chương. Thời gian qua, anh đã cho in một tập tiểu thuyết, 4 tập thơ. Năm 2008, anh dự kiến sẽ cho ra đời một tập thơ, một tập phê bình văn học.
Trong những ngày cận Tết Mậu Tý, tôi có dịp gặp nhà thơ Đinh Nam Khương. Biết tôi là người ham đọc phê bình văn học, sau khi tặng tôi tập thơ Trên lối đi thời gian của mình, anh bảo tôi góp ý cho cái tên tập sách phê bình sắp in của anh...".
Sau khi gửi bài ấy cho nhà thơ Đinh Nam Khương, tôi nhấc máy điện thoại hỏi thêm anh một vài điều tôi đang băn khoăn: Trong thời buổi kinh tế thị trường này, người ta lao vào làm kinh tế, hơn nữa lại được các phương tiện thông tin khác cuốn hút, nên những người yêu thơ, đọc thơ giảm đi, ngay cả những người thân của không ít nhà thơ cũng thờ ơ với thơ của họ, vậy anh có suy nghĩ gì về thơ? Và có lúc nào, anh nản lòng, có ý định từ giã hẳn việc sáng tác thơ không? Trước đây, anh cũng đã từng gác bút một thời gian khá dài.
Dường như không phải đắn đo, suy nghĩ gì, anh Đinh Nam Khương trả lời tôi ngay. Anh nói, bạn đọc hôm nay giảm sự mặn mà với thơ thì rất buồn, nhưng mình biết vẫn còn đó những người yêu thơ, họ coi như ngọn lửa xua tan giá lạnh của mùa đông. Những người đó đã khích lệ rất nhiều trong sáng tác. Bởi vậy, làm sao mà mình có thể từ giã được việc sáng tác? Dẫu vào lúc này mình chỉ như chiếc "lá đa về chiều" thôi. Và dẫu mình biết: "Cái nghèo-là nghiệp văn chương". Nhưng trong cái nghiệp văn chương, mình cũng có cái vui, con mình tên là Đinh Hương Bình đang tiếp bước con đường mình đi. Trong bài thơ "Nói với con", mình đã viết: Cái nghèo-Là nghiệp văn chương-Cha vui vì thấy trên đường có con.
Tiếp lời tôi, anh Đinh Nam Khương đọc cho tôi nghe bài Viết lúc mẹ vắng nhà. Đây là bài thơ anh thể nghiệm chi tiết đời thường. Nhà thơ Đinh Nam Khương vừa đọc xong bài thơ thì tôi bảo, tôi đã đọc bài thơ này đăng ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm nào. Tên tác giả bài thơ thì tôi chỉ nhớ láng máng, nhưng hình ảnh người mẹ nhọc nhằn, lam lũ, chắt chiu, hy sinh tất cả vì tương lai của con trong bài thơ thật ấn tượng, khiến tôi không thể nào quên.
Trước khi ngừng lời, anh Đinh Nam Khương còn kể thêm với tôi, chiều hôm ấy giá lạnh, khi đi công tác trở về anh vào thăm vườn nhà mình, liền chợt thấy trên cành na có mấy quả mà mẹ anh để dành cho anh đã chín nẫu. Anh vừa chạm tay vào thì một quả tuột ngay nuốm, khiến anh vô cùng xúc động: ... Bất ngờ rụng ở trên cành-Quả na cuối vụ mẹ dành cho con-Nghẹn ngào thương mẹ nhiều hơn-Rưng rưng từ chuyện giản đơn thường ngày-Ào ào trận gió rung cây-Lá vàng bay, lá xanh bay... khắp vườn.
Cho đến hôm nay, dẫu chưa được đọc, được nghe trọn những gì mà nhà thơ-thầy thuốc Đinh Nam Khương sáng tác, nhưng mỗi khi nhớ anh, tôi lại nhớ đến con dao cầu và cây bút gắn bó máu thịt với cuộc đời anh. Nhờ con dao cầu thái thuốc, bàn tay anh đã giúp bao người bệnh làm tan biến đi những nỗi đau đớn. Nhờ cây bút, bàn tay anh đã viết những dòng thơ như người ta gieo mạ dưới chân núi Hương Tích. Đấy là trời cho anh! Đúng! Đấy là một sự lựa chọn của đời anh? Cũng đúng. Không thể khác! Chất lính, chất nghệ sĩ của Đinh Nam Khương là như thế.
Ngõ 189, ngày 21 tháng 9 năm 2008
LÃ BÁ TÌNH