QĐND-Chuyện tù binh Mỹ tên Rô-bớt Rút-xeo Ga-út (Robert Rusell Garwood), tên thân mật là Bốp-bi (Bobby), tên Việt Nam là Nguyễn Chiến Đấu, được cảm hóa ở chiến trường Khu 5, người biết rõ nhất là cựu chiến binh Nguyễn Bé, công tác ở văn phòng Bộ tư lệnh Quân khu 5, đã nghỉ hưu, hiện ở tổ 76, phường Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng.
Lực lượng và phương tiện Mỹ huy động vào chiến tranh Việt Nam
- Về lực lượng: Lúc cao nhất đã có 63,8 vạn quân Mỹ trực tiếp tham gia cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Riêng trong đất liền có 53,5 vạn quân Mỹ và 1 triệu 80 vạn quân ngụy và chư hầu.
Huy động 45% lực lượng bộ binh, 60% lính thủy đánh bộ, 29% không quân chiến thuật và gần 50% không quân chiến lược, gần 43% tàu sân bay, sử dụng toàn bộ lực lượng vận tải đường không và đường biển.
Mỹ đã huy động gần 6 triệu lượt người Mỹ, trong đó có 4.649.000 người dưới 30 tuổi tham gia cuộc chiến tranh Việt Nam, huy động 40% các nhà vật lý, 260 trường đại học, 22.000 xí nghiệp lớn với 5,5 triệu công nhân phục vụ chiến tranh.
- Về máy bay: Mỹ đã dùng 75 kiểu loại. Cuối tháng 3-1972, Mỹ dùng 1.270 máy bay chiến đấu (bằng 31% tổng số máy bay chiến đấu của Mỹ).
- Tàu biển: Lúc cao nhất Mỹ đã dùng 65 tàu chiến và tàu đổ bộ, trong đó có 4 đến 5 tàu sân bay, 4 đến 5 tuần dương hạm.
- Thiết giáp, pháo binh: Sử dụng 18 loại xe tăng, 17 kiểu pháo binh, 12 loại tên lửa, 24 tiểu đoàn thiết giáp, 2.750 xe tăng và thiết giáp.
- Bom, mìn: Mỹ đã sử dụng 7.882.547 tấn, gồm 14 loại bom mìn, 27 loại lựu đạn, đạn hóa học, bom cháy, gấp 3,8 lần số bom đạn Mỹ đã sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai, gấp 12 lần trong chiến tranh Triều Tiên.
Theo công bố của Chính phủ Mỹ, chi phí chiến tranh là hơn 352 tỷ USD, gấp 20 lần chi phí của Mỹ cho chiến tranh Triều Tiên và gấp hai lần chi phí của Mỹ cho Chiến tranh thế giới thứ hai. Nhưng theo sự tính toán của các giáo sư và các nhà kinh tế Mỹ, con số này có thể là 676 tỷ hoặc 925 tỷ USD (theo R.Xtê-ven công bố trên tờ Tin Mỹ và thế giới).
THANH TRÍ
Theo “Đại thắng mùa Xuân 1975” - NXBCTQG, 2005
|
Thượng tá Nguyễn Bé năm nay 77 tuổi, nhưng trông còn khá trẻ so với tuổi. Ông kể về viên tù binh Bốp-bi, xưng “hắn” như kể về một thời thanh niên sôi nổi của mình. Vợ ông, bà Nguyễn Thị Bích Thiện là bạn một thuở ở trên núi với ông, y tá Cục Chính trị Quân khu 5, thỉnh thoảng lại bổ sung những gì bà biết ở chiến trường. Quê Nghĩa Hành, Quảng Ngãi, tập kết ra Bắc, nhờ có trình độ văn hóa, ông thi đậu vào Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và sau đó được chuyển qua Khoa Tiếng Anh để bổ sung vào miền Nam.
 |
Thượng tá Nguyễn Bé và vợ kể chuyện Bốp-bi.
|
Công tác ở Phòng Địch vận Quân khu 5, ông thường xuyên được Ban Binh vận Khu ủy gọi qua khai thác, hỏi cung tù binh Mỹ. Trại tù binh đóng tại Trà Bồng, Quảng Ngãi, một vùng rừng núi hiểm trở, đường rất khó đi. Trại chẳng có tường rào bao bọc, nhưng chẳng tên nào dám trốn, bởi trốn ra cũng không biết đi đâu. Sau này, họa sĩ Trần Hoàng Sơn đến đây vẽ chân dung lính Mỹ cũng đã cảm nhận như vậy. Tầm sau Tết năm 1966, lần đầu ông gặp Bốp-bi. Đó là một thanh niên chừng 20 tuổi, đẹp trai, lính Sư đoàn 3 thủy quân lục chiến, cấp bậc hạ sĩ, bị du kích bắt khi một mình lái xe đi chơi xuống Non Nước (Đà Nẵng). Nói chuyện với Bốp-bi, ông thấy hắn có vẻ gì đó còn hồn nhiên, có thể cảm hóa được. Vậy là tối đến, cùng ngủ trong lán trại, ông tỉ tê giảng giải về chính sách nhân đạo của Quân Giải phóng, cuộc chiến tranh xâm lược của nhà cầm quyền Mỹ. Bốp-bi vỡ vạc ra nhiều điều. Những lúc không gặp, Bốp-bi viết cho ông đến 7 lá thư kể những cảm nhận về cuộc sống mới. Ông tranh thủ tác động tư tưởng, kịp thời động viên anh ta.
Ở đây đành là gian khổ, nhưng tiêu chuẩn của tù binh Mỹ cao hơn cán bộ ta nhiều lần. Bình thường họ được hai lon gạo/ngày. Sữa thì 2 lon/ tháng. Cán bộ ta chỉ nửa lon gạo/ ngày. Ta còn tạo điều kiện để họ tự chăn nuôi gà lấy thịt mà ăn. Có dịp ông lại qua bên trại, tâm sự với hắn, dạy tiếng Việt, quy định một giờ nói tiếng Việt, một giờ nói tiếng Anh. Hắn chịu khó đọc sách nên tiến bộ rất nhanh. Đôi lúc nói những câu không ngờ đến.
Có lần, hắn kể thấy hai anh vệ binh của ta vì không ai chịu ai, cãi vã sau đó lao vào nhau, hắn nói với ông: “Thấy cảnh đó, tôi chết đứng như Từ Hải!”. Hắn rất “si” cô Thúy Hợi, diễn viên múa Đoàn Văn công Quân khu 5, muốn ông Bé giới thiệu. Nhưng văn công ở xa, điều kiện không dễ gặp, nên chuyện đó không đi đến đâu. Hắn tự nguyện nhận những công việc nặng nhọc. Khi hành quân, bộ đội ta cõng 130 lon gạo, hắn cõng 170 lon, biết vác ba lô giúp những người yếu sức. Có lần ông Bé thấy hắn cõng những thùng mắm to (mắm cái), mắm rớt vào áo, ngứa ngáy và bốc mùi nhưng vẫn rất vui vẻ. Hắn biết cách lấy mắm bẫy cua. Ngủ một đêm, sáng dậy chộp được cả chục con. Dần dần hắn được sự tin tưởng của ta. Ta để hắn đi lại thoải mái. Hắn giao lưu với đồng bào dân tộc thiểu số rất tốt và cũng rất láu cá.
Lần gặp ông Bé trên đường hành quân, cả hai nghỉ qua đêm tại một gia đình người Co. Hắn bảo: “Cứ yên trí, tôi sẽ chiêu đãi ông”. Hắn lấy trong nịt ra mấy viên đá lửa, vỏ đạn, nói rất khéo để đổi lấy nải chuối, con gà, làm thịt, cả hai ăn uống no say. Với tù binh trong trại, hắn đối xử rất tốt, hắn còn gửi cho họ một số đồ dùng, cả thuốc để hút. Bọn chúng nhìn Bốp-bi đã thiện cảm hơn.
Năm 1969, Bốp-bi được đưa ra miền Bắc. Đêm trước khi đi, hắn mời ông Bé qua nói lời chia tay, cảm ơn ông đã gần gũi, chia sẻ với hắn trong mấy năm qua. Hắn tặng ông chiếc hăng-gô đựng thức ăn và một chiếc ra-đi-ô mới nhưng ông không lấy vì nghĩ lúc nào đó Bốp-bi sẽ cần dùng.
Sau này, các đồng chí bên Cục Địch vận (Tổng cục Chính trị) kể lại rằng, Bốp-bi ra Bắc đi sơ tán ở Thường Tín (Hà Tây cũ). Hắn yêu con gái bà chủ nhà nhưng gia đình không chịu gả. Buồn, hắn bỏ đi lang thang ở Hà Nội rồi bị công an giữ. Cục Địch vận phải can thiệp đưa hắn ra. Sau đó hắn được phân công phụ trách máy nổ ở gò Đống Đa. Năm 1979, ta sắp xếp cho hắn về nước. Qua theo dõi trên báo chí, ông Bé biết ở Mỹ, hắn bị đưa ra xét xử ở nhiều tòa. Tòa cấp cao Thủy quân lục chiến xét mấy tội: Đào ngũ, hợp tác với “địch”, tra tấn đồng hương dù sự thực không bao giờ có chuyện tra tấn tù binh và hắn cũng không bao giờ tham gia hỏi tù binh. Hắn bị cắt mọi chế độ, giáng cấp xuống binh nhì. Hắn lấy vợ rồi lại ly dị vợ. Nay đã xấp xỉ tuổi 70 rồi mà cuộc sống của hắn vẫn còn khó khăn.
Ông Bé kể rằng, cách đây chừng 20 năm, hắn qua Việt Nam, sau đó có vào Đà Nẵng tìm ông. Lúc này, ông đã chuyển vào TP Hồ Chí Minh. Hắn hỏi thăm nhưng không tìm được. Rất tiếc là do chiến tranh, những lá thư hắn đã viết cho ông không còn nữa. Nhưng ông không hề quên bất cứ điều gì liên quan đến anh ta. Đó là một con người sớm nhận ra cuộc chiến tranh phi nghĩa của nhà cầm quyền Mỹ và có những hành động phản kháng, ủng hộ cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam như bao thanh niên yêu chuộng hòa bình trên đất Mỹ lúc bấy giờ.
Để khẳng định những lời kể của CCB Nguyễn Bé, chúng tôi về thôn Tập An Nam, xã Phổ Văn (Đức Phổ, Quảng Ngãi) gặp Đại tá Trần Ngọc Giao, nguyên cán bộ Phòng Địch vận Quân khu. Ông nói, đúng là đã có một tù binh Mỹ như thế ở chiến trường Khu 5. Ông Giao nói: “Chiến trường Khu 5 đã cưu mang và cảm hóa Bốp-bi, cho anh ta những năm tháng sống có ý nghĩa. Tôi luôn tin Bốp-bi là một người tốt. Cầu mong anh ta hạnh phúc trong cuộc đời còn lại của mình”.
Bài và ảnh: HỒNG VÂN