“Chúng tôi là những người đã chết. Nhưng người ta chỉ chết hẳn khi không sống trong lòng người khác nữa. Ngoài thế giới của người đang sống và cõi lặng im của người đã chết, còn một cõi thứ ba: Cõi của những người đang sống trong trí nhớ của người khác...”. Đó là lời của một nhân vật trong tác phẩm “Người trong cõi nhớ” của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ.

Đã 20 năm trôi qua kể từ ngày anh cùng vợ-nhà thơ Xuân Quỳnh và con trai ra đi...

Đạo diễn-NSND Đào Trọng Khánh: Nhớ quá!

Tôi quê Hải Phòng, sinh hoạt trong nhóm thơ của Tạp chí Cửa Biển. Thập niên 70, Lưu Quang Vũ nhiều lần xuống Hải Phòng chơi. Ngày đó những người bạn thơ của chúng tôi thường tụ họp. Nguyễn Khắc Phục từ chiến trường trở về, cổ quấn một chiếc khăn dù, râu lởm chởm; Thi Hoàng ở bộ đội được nghỉ phép, người thấp bé; Thanh Tùng áo thợ lấm những vết dầu mỡ; nhà thơ hoạ sĩ Tường Vân, mặt như vôi trắng, nụ cười rộng đến mang tai… thường ngồi đợi Vũ ở quán ăn đêm của công nhân bốc xếp cảng.

NSND Đào Trọng Khánh Ảnh: Trung Nguyên

Tôi và Vũ có duyên với nhau. Tính Vũ hóm hỉnh, hài hước, tính tôi cũng hay đùa nên trò chuyện cảm thấy thú vị. Vũ là một con người hiền lành, dịu dàng, nhỏ nhẹ, đối với bạn bè rất chân tình, cởi mở. Tôi vốn thích rượu, Vũ lại không uống được rượu, chỉ làm một chén đã đỏ mặt, nhưng vì chiều bạn, nên mỗi lần tôi lên Hà Nội chơi thì dù có túng thế nào, Vũ cũng kiếm bằng được rượu rồi cùng bạn ngồi uống, đọc thơ, nói chuyện trên trời dưới biển. Thi sĩ vốn hay mê thơ mình nhưng chúng tôi ngày ấy không những yêu thơ của mình mà còn yêu thơ của bạn. Có gì hay là tìm đến đọc cho nhau nghe. Vũ thực sự là một người làm thơ có tài. Từ năm 1968, Vũ đã nổi tiếng với tập thơ “Hương cây-Bếp lửa” in chung với Bằng Việt. Đó là giọng điệu trẻ trung, đắm say quê hương đất nước, là những nghĩ suy trăn trở của thế hệ trẻ trước các biến cố lịch sử. Thơ Vũ chưa phải đã đưa đến cho thơ ca một giọng điệu riêng, nhưng đó là một tâm hồn thơ không lẫn lộn, thật đẹp đẽ! “Vườn trong phố” của hắn hay thật! “Tiếng đàn bầu” của hắn hay thật! Biết bao nhiêu bài, nhiều khi không nhớ được hết tên, nhưng đọc lên bao giờ cũng nhiều xúc cảm. Những bài thơ của Vũ rất gần gũi, rất cuộc đời, đọc nó người ta không thấy có cảm giác triết lý, giáo huấn, mà phần lớn là tình cảm với các cung bậc của nó: có khi đắm say, run rẩy; có khi âu lo, chán chường, thất vọng...

Bạn chơi với nhau, nếu có hỏi kỷ niệm nào sâu sắc nhất, tôi cũng chẳng nhớ nữa. Chỉ biết rằng, thỉnh thoảng gặp nhau, cơm hàng rượu chợ, yêu mến, nể trọng nhau, tình thân cứ thấm dần theo năm tháng. Nhớ bạn những lúc bạn vui, thành đạt, nhớ những lúc bạn nhọc nhằn, cơ cực.

Tết năm ấy, Vũ nghe lời một người bạn rồi rủ Lâm và Trần Tiến đi buôn giấy ảnh. Có bao nhiêu tiền góp lại mua được 3 ba lô giấy ảnh. Bán ở Hà Nội chẳng ai mua, bảo nhau mang xuống Hải Phòng, dưới đó hiếm hàng, may ra bán được. Tôi đang ở nhà, thấy 4 ông lò dò vào. Tôi hỏi: “Có gì đấy?”-“Giấy ảnh”. Tôi bảo lấy ra xem: “Giấy ảnh hỏng rồi!”-“Hỏng là hỏng thế nào, còn mới cứng!”-“Cứng là chết rồi, giấy ảnh phải mềm các bố ạ!”. Nhìn đống giấy ảnh mốc, dính vào nhau, mặt Vũ chảy ra, buồn thiu. Cả bọn lại rồng rắn lên tàu về Hà Nội. Tết năm ấy, kể như Vũ không có Tết.

Gia đình Lưu Quang Vũ-Xuân Quỳnh

Hầu hết những cuộc tình của Vũ, tôi đều là người chứng kiến. Tôi không là người ba phải nhưng chuyện yêu đương, chọn vợ chọn chồng là chuyện riêng của bạn. Điều không giống ai của Vũ chính là điều đáng yêu của Vũ. Tôi không bênh hắn nhưng tình yêu là thế, nó không thuần túy chỉ có chung thủy, ngọt ngào mà còn có cả cay đắng, bội bạc. Cuộc tình của Vũ với người vợ đầu là Tố Uyên, đẹp quá! Nhưng họ không giống những cặp vợ chồng bình thường, họ là tài tử giai nhân, nên tan vỡ là điều khó tránh khỏi. Về sau, Vũ lấy Xuân Quỳnh. Đó là sự gặp nhau của hai tâm hồn đồng điệu. Quỳnh đúng là một người phụ nữ tài năng, nhưng vô cùng đằm thắm, chân tình, dưới một vẻ ngoài chua ngoa, đanh đá. Khi đến với Vũ, dù đã là một nhà thơ nổi tiếng, Quỳnh vẫn sẵn sàng chấp nhận hy sinh để vun đắp cho sự nghiệp của chồng. Vũ đã viết cho Quỳnh thế này:

Dù sao cuộc đời đã giành em lại cho anh

Điều mong ước đầu tiên, điều ở lại sau cùng

Chúng ta đã đi bên nhau trên mặt đất

Dẫu chỉ riêng điều đó là có thật

Đủ cho anh mãi mãi biết ơn đời.

Sau này, khi Vũ chuyển sang viết kịch, thì kịch trường không chỉ đem lại cho Vũ danh tiếng, mà còn đem lại vinh quang và tiền bạc. Nhưng tôi biết, Vũ vẫn luôn khao khát có thời gian dành cho thơ. Không dưới một lần Vũ tâm sự với tôi: “Có một chút tiền rồi tôi với ông lại trở về làm thơ như ngày xưa”. Nhưng tôi nhận ra rằng: Không bao giờ có con đường trở lại với thơ nữa đâu Vũ ơi. Bởi, thơ giống như một người tình chỉ chấp nhận sự chung thủy tuyệt đối, không chấp nhận sự phản bội. Một mối tình chỉ đến với ta một lần trong đời.

Lần cuối cùng tôi gặp Vũ trước ngày định mệnh ấy chừng 2 tháng. Hôm ấy Đoàn kịch Hải Phòng diễn vở “Hoa cúc xanh trên đầm lầy” của Vũ. Vũ đến nhà tôi ăn cơm, rồi mời cả nhà đi xem. 11 giờ vở diễn kết thúc, chúng tôi đứng trước cửa Nhà hát Lớn, dưới ánh đèn đêm vàng vọt, Vũ ngậm ngùi nói: “Tôi viết 1-2 vở kịch nữa, rồi chúng ta lại trở về làm thơ như ngày xưa”. Nhưng có bao giờ được nữa. Đường trở về xa quá! Vũ lủi thủi đi về đoàn kịch, còn tôi cặm cụi đi về phía chùa Hà, từ đấy, rồi không bao giờ còn gặp nhau được nữa... Đã 20 năm mà chẳng thể nào quên! Nhớ quá!

NSND Hoàng Dũng, Giám đốc Nhà hát kịch Hà Nội: Nợ một khối ân tình!

Lưu Quang Vũ là một nhà viết kịch tài năng. Từ năm 1980, đặc biệt vào những năm 1985-1990, thậm chí cả sau khi đã mất, anh đã đưa đến cho thánh đường sân khấu vẻ tưng bừng, huy hoàng. Anh đã cứu cho sự sống mòn mỏi của nhiều đoàn diễn, đã lay thức nhiều nghĩ suy cho công chúng của sân khấu vốn một thời gian dài nhàm chán. Hơn 50 vở kịch của anh lấy từ các đề tài vô cùng phong phú: Công nghiệp, nông nghiệp, nông thôn... đặt ra vấn đề thay đổi quan niệm, nền nếp làm ăn cũ, những vấn đề mà mọi người đang quan tâm suy nghĩ, những nỗi dằn vặt về cuộc sống, về tình người... Kịch của anh luôn toát lên những ý tưởng mạnh mẽ, những niềm tin khát khao cái đẹp. Cũng chính những tác phẩm của anh đã làm nên những tên tuổi như Trần Vân, Hoàng Cúc, Minh Trang, Quốc Chiêm, Lâm Bằng… Vì tất cả những điều đó mà sự ra đi của anh thật là một tổn thất, một mất mát lớn vô cùng.

NSND Hoàng Dũng

Tôi quen anh đúng là một cơ duyên. Một lần đến chơi nhà nghệ sĩ Trần Tiến, tôi gặp anh và chị Quỳnh ở đó. Không hiểu dưới con mắt của một nhà viết kịch thế nào mà anh bảo tôi: “Mày mà đóng kịch của Mô-li-e thì hay lắm”. Sau đó, trong một lần đến nhà hát dựng vở “Cô gái đội mũ nồi xám”, anh có hỏi tôi: “Trong vở kịch này em thích vai nào?”. Lúc đó, tôi nghĩ mình còn trẻ, lại mới vào nghề, nên chỉ dám nói đến những vai khiêm tốn. Anh hỏi: “Tại sao em không thích vai Nhật?”. Nhật là nhân vật chính trong vở kịch, một kiến trúc sư có tâm hồn lãng mạn, đáng yêu. Công việc và mơ ước của anh là thiết kế những ngôi nhà cho 50 năm sau. Tôi trả lời anh: “Em thích!”. Anh lại bảo: “Tại sao thích mà em không nói”-“Vì em không dám mơ”. Trước khi về, anh dặn tôi: “Em nghiên cứu đi nhé!”. Lúc ấy, điều anh nói làm cho tôi thật hạnh phúc. Tôi lao vào nghiền ngẫm và đọc thuộc lời thoại. Đến lúc phân vai, sau khi vượt qua vòng kiểm tra gắt gao của đạo diễn NSND Nguyễn Đình Nghi, tôi được phân vào vai Nhật. Đây là vai chính đầu tiên tôi được lên diễn trên sân khấu. Tôi đã tự nhủ phải nỗ lực hết mình, vì đây là cơ hội có một không hai. Vai diễn ấy của tôi sau đó đã được rất nhiều đạo diễn và đồng nghiệp khen ngợi. Đó cũng là lần đầu tiên tôi nhận được những lời khen từ báo giới. Năm đó là năm 1981. Sau vai diễn đó, tôi được đến với vở “Tôi và chúng ta”, lại cũng là một vở kịch nổi tiếng của Lưu Quang Vũ. Lần này là một vai phản diện-nhân vật phó giám đốc, một con người ghê sợ, với “thành tích” lật đổ mấy đời giám đốc. Có người còn nói, hắn thuộc loại khi bắt tay xong mình phải xem lại có còn đủ năm ngón không. Vai diễn này đã đưa lại cho tôi chiếc Huy chương vàng đầu tiên ở Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp năm 1985.

Sau này được làm việc và gần gũi hơn với anh Vũ, chị Quỳnh, tôi càng quý trọng và yêu mến vợ chồng anh. Đời sống của người nghệ sĩ thời ấy khó khăn, chật vật lắm. Căn buồng anh Vũ với chị Quỳnh ở vỏn vẹn chừng 6-7m2, sách lại nhiều hơn chỗ ngồi, nhưng anh thường rủ tôi và Minh Trang (diễn viên kịch Hà Nội, sau chuyển vào Nam) đến chơi, ăn cơm. Chị Quỳnh rất chăm vào bếp. Tôi ít thấy ai yêu và nể chồng như chị. Mỗi lần có in tập thơ hay truyện, tôi đều được anh chị tặng. Những lúc có chuyện vui, buồn tôi lại tìm đến anh chị. Sau này, anh Vũ phải đi dựng vở liên miên nhưng tôi vẫn nhận được từ anh sự quan tâm, chăm sóc. Biết tôi thiếu thốn, anh hay cho tôi tiền. Còn chị Quỳnh, mỗi khi thu xếp được thời gian, chị đều đến xem tôi diễn, và thường cho tôi những lời góp ý rất chân tình, sâu sắc.

Có một kỷ niệm tôi không thể nào quên. Đó là vào ngày 30 Tết năm 1985, anh Vũ mời tôi và Minh Trang đến ăn tất niên. Anh bảo chiều 30 Tết mọi người đều sum họp với gia đình nên anh chị làm vào buổi trưa. Bữa cơm tất niên năm ấy chỉ có anh chị, các cháu và chúng tôi. Vì ngày Tết bận rộn, chúng tôi ăn uống nhanh nhanh để về, nhưng anh Vũ giữ lại. Khi chị Quỳnh dọn bát đĩa đi rửa, anh rút tiền trong ví, mừng tuổi hai đứa chúng tôi. Tôi không nhớ bao nhiêu nhưng vô cùng cảm động trước nghĩa cử của anh. Đến khi chúng tôi xuống bếp chào chị Quỳnh để về, chị bảo chờ. Ra đến cửa, chị lại rút tiền mừng tuổi cho hai đứa. Không phải anh chị giấu nhau để cho bọn tôi tiền, mà đó là tình cảm của những con người thật tình nghĩa, luôn quan tâm, sẻ chia với người khác. Minh Trang bật khóc tu tu, còn tôi thì lúng túng. Trên cả đoạn đường về hôm ấy, hai anh em chẳng nói lời nào, cảm giác thật khó tả, buồn vui lẫn lộn. Bọn tôi ngày ấy nghèo lắm, nhưng anh chị cũng chẳng hơn gì. Thật đúng là một miếng khi đói bằng một gói khi no. Cho đến giờ, mỗi khi nghĩ đến anh chị, tôi vẫn canh cánh trong lòng một món nợ ân tình.

HƯƠNG NGUYÊN