Xã Sín Thầu (Mường Nhé, Điện Biên) nằm ở ngã ba biên giới Việt Nam - Trung Quốc - Lào. Mấy năm về trước, Sín Thầu được coi là xã của những con số không: không điện, không đường, không trường, không trạm, không điện thoại... Trong cuộc sống với muôn vàn gian khó ấy, có ba người cán bộ là: Pờ Dần Sinh, Bí thư Đảng ủy xã; Sừng Sừng Khai, Chủ tịch UBND xã và Sín Phù, Chủ tịch Hội đồng nhân dân đã dũng cảm thay đổi các tập quán lạc hậu, kiên trì vận động và lãnh đạo đồng bào xây dựng cuộc sống mới...
Từ "con nghiện" trở thành chủ tịch xã
Có thể nói, Sín Thầu đói nghèo, lạc hậu là do vị trí địa lý ở nơi "rừng sâu, núi thẳm", bốn bề cách trở và trình độ dân trí thấp; nhưng còn một nguyên nhân nữa là Sín Thầu (xã có 100% người dân tộc Hà Nhì) còn bị ảnh hưởng nặng nề của các phong tục lạc hậu, nhất là tình trạng nghiện thuốc phiện.

|
Bộ ba Pờ Dần Sinh, Sừng Sừng Khai-Sín Phù (từ trái sang phải) |
Gặp Chủ tịch xã Sừng Sừng Khai bây giờ, không ai biết anh từng là một "con nghiện". Những năm 1980 cả xã Sín Thầu bạt ngàn cây anh túc. Mẹ Sừng Khai, bà Pò Lò Xứ cũng bị nghiện nặng. Khi Sừng Khai 19 tuổi, trong một lần ốm nặng dù mời đủ các thầy mo về cúng bái nhưng cũng không khỏi, mẹ Sừng Khai "liều" cho Khai hút thuốc phiện. Sừng Khai khỏi bệnh, nhưng cũng từ đó mỗi lần trong người mệt mỏi là Khai lại nhờ đến “biệt dược” của mẹ cho. Từ đó, Sừng Khai dùng thường xuyên và không thể rời xa thuốc phiện được nữa. Từ một chàng trai vạm vỡ của núi rừng, anh trở thành một anh chàng ốm yếu, dặt dẹo, của cải trong nhà theo làn khói thuốc phiện cứ "đội nón ra đi". Là một thanh niên có học, Sừng Khai nghĩ: "Cứ thế này thì cả xã sẽ chết đói vì thuốc phiện thôi, mình phải tự cứu lấy mình trước khi mong cứu mẹ và người khác". Nhờ ý chí mạnh mẽ, anh tự rèn mình thoát khỏi vòng tay của "nàng tiên nâu" dù nhiều lần lên "cơn vật", Sừng Khai đã tự đập đầu vào thành giường đến bật máu.
Cai xong, Sừng Khai trở lại cường tráng như xưa. Nhờ chí thú làm ăn nên kinh tế gia đình anh ngày càng khá. Sừng Khai trở thành tấm gương sáng để cả bản A Pa Chải noi theo. Anh được dân bản tín nhiệm bầu làm trưởng bản, rồi sau đó được bầu làm chủ tịch xã. Với cương vị mới, Sừng Khai biết, muốn làm cho dân bản no ấm thì trước hết phải đẩy lùi tệ nạn thuốc phiện, nhưng thuyết phục được người nghiện, nhất là các cụ già đi cai chẳng khác nào "húc đầu vào núi". Nghĩ vậy nhưng anh vẫn đề nghị Đồn biên phòng Leng Xu Xìn giúp mở lớp cai nghiện tại xã.
Người "học viên" đầu tiên của lớp chính là mẹ Sừng Khai. Bà Pò Lò Xứ khi "bị" con trai bắt đi cai nghiện, đã nói: “Thà mày giết tao còn hơn”. Nghe mẹ nói, Sừng Khai cũng thấy lo vì bà lăn ra ốm. Nhưng được bộ đội biên phòng giúp đỡ, cứ mỗi sáng, vợ chồng anh lại cáng mẹ từ nhà, vượt qua mấy ngọn núi xuống "lớp", chiều cáng về. Hai năm sau, bà Xứ cai thành công. Trông bà hồng hào, khoẻ mạnh trở lại, các cụ ông, cụ bà trong bản bắt đầu có người đến xin được học cách cai nghiện. Tất nhiên, để cai được đâu có dễ, nhất là các cụ có “thâm niên” vài chục năm bên bàn đèn. Sừng Khai ra lệnh "ép" các cụ phải cai nên có cụ vừa thấy bóng Sừng Khai ở cổng là trốn ra rừng. Sừng Khai phải dùng "mẹo" mới đưa được các cụ lên "lớp học" rồi dùng gạo nhà lo cơm nước để các cụ không phải về nhà ăn cơm. Có trường hợp lên cơn nghiện trong đêm, anh đã ngồi giữ và ôm người nghiện cho đến sáng. Tấm lòng chân thành của Sừng Khai đã cảm hóa được nhiều người nghiện. Đến nay, anh đã vận động được hơn 150 người nghiện từ bỏ bàn đèn.
"Thầy" của các thầy
Dân trí thấp là nguyên nhân của lạc hậu và đói nghèo. Nhận ra điều đó, Bí thư Đảng ủy Pờ Dần Sinh là người đi tiên phong, tích cực vận động mở lớp, mở trường cho con em Sín Thầu. Mười năm trước, các em học sinh ở đây phải đi bộ mấy ngày đường sang thị trấn Mường Tè (huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu) để theo học. Con chữ cũng vì thế mà rơi bớt đi mỗi lần leo dốc, xuống dốc và những cơn mưa rừng xối xả lấp lối. Ở xã vùng cao heo hút này, đường đi lại khó khăn, từ huyện đến lớp phải đi gần 100km và qua 4 con suối mà mùa khai giảng thì ngập lút đầu nên đã có thầy, cô giáo đến đây nhưng chỉ dạy được 1-2 tháng, ra huyện rồi không trở lại nữa. Trăn trở với tình trạng đó, ông Dần Sinh ra Phòng giáo dục huyện (lúc đó còn thuộc huyện Mường Tè, Lai Châu) xin mở lớp 1-2 về xã. Vất vả lắm mới mở được trường học nhưng có bản cách trường cả vài chục cây số, nhiều gia đình muốn nhưng cũng không có điều kiện cho con em ra xã đi học, thế là ông lại xoay xở mang lớp về bản.
 |
Thư viện Sín Thầu được hình thành nhờ sáng kiến của ông Pờ Dần Sinh |
Đến nay, xã có 8 bản thì bản nào cũng có ít nhất là lớp 1, bản nào không có lớp 2 thì sang bản bên cạnh học, lớp lớn mới phải ra xã học. 80% trẻ em Hà Nhì ở Sín Thầu đến tuổi đã được đến trường. Vì là xã đặc biệt khó khăn nên nhiều đoàn thanh niên tình nguyện từ Hà Nội lên đây thăm, giao lưu với thanh niên địa phương. Ông Dần Sinh nghĩ ra cách dành một phòng của Đảng ủy xã để làm thư viện, đề nghị các nhóm thanh niên tình nguyện ở Hà Nội mỗi lần lên thăm thì tặng địa phương một ít sách, truyện, tài liệu nông nghiệp cũ... Nhờ vậy mà tạo ra phong trào đọc sách, mở mang kiến thức của thanh, thiếu niên Hà Nhì. Bản thân ông Dần Sinh rất gương mẫu trong xây dựng phong trào học tập trong gia đình. 5 người con của ông Pờ Dần Sinh đều đang học phổ thông trung học và thiếu sinh quân xa nhà. Riêng người con cả của ông đã tốt nghiệp đại học. Ông Sinh được đi báo cáo điển hình trên tỉnh về thành tích vận động học sinh ra lớp, giúp đỡ các thầy cô giáo khi đến đây "cắm bản". Có thầy cô mới đến, thấy khó khăn quá chỉ muốn về xuôi nhưng đã ở lại vì "tình nghĩa của "thầy" Pờ Dần Sinh lớn quá". Ít người biết, 20 năm trước đây, Pờ Dần Sinh là người Sín Thầu duy nhất học hết cấp 3, được quyền chọn lựa công việc ở thị trấn huyện nhưng ông đã tình nguyện xin về Sín Thầu để làm lãnh đạo xã với quyết tâm "sẽ có ngày 100% con em Sín Thầu được đi học".
Chiếc "kiềng ba chân"
Trong 3 cán bộ chủ chốt của xã Sín Thầu thì Sín Phù, Chủ tịch Hội đồng nhân dân là người ít nói. Cách làm việc tận tụy và âm thầm của ông luôn khiến bà con trong bản phải chú ý và làm theo. Cách đây 3 năm, Đảng uỷ xã bàn mãi mà chưa tìm ra hướng để nâng cao đời sống của dân. Ông Sín Phù cũng về nhà nghĩ ngợi lung lắm. Ông nghĩ: Ở tuổi trai tráng, ông tham gia đánh phỉ để bảo vệ làng bản. Lúc ấy, tưởng đánh phỉ là việc khó nhất nhưng vẫn làm được vì những người dân quân như ông biết dựa vào rừng núi A-pa-chải. "Nay vẫn phải dựa vào rừng núi thôi. A Pa Chải có những đồng cỏ rộng ngút ngàn, có thể nuôi trâu bò được" - ý nghĩ này của Sín Phù bị nhiều người cho là không thiết thực. Sín Phù vẫn quyết định nuôi trâu, bò. Ông cho rằng xã mình vì không có đường nên chưa có người đến tìm mua trâu bò, nếu mình nuôi được nhiều trâu bò thì ắt sẽ có người tìm đến mua. Lúc ấy thì làm đường cũng chưa muộn. Từ chỗ chỉ có vài con, nay đàn trâu, bò của ông đã lên đến gần trăm con. Đến nay, đường giao thông liên xã đã về đến Sín Thầu. Quả nhiên có rất nhiều thương lái tìm đến hỏi mua trâu, bò của Sín Phù. Tính ra, Sín Phù có nửa tỷ đồng. Nhưng ông không giữ riêng cho mình mà nghĩ ra cách cho bà con mượn trâu bò làm sức kéo trong 3 năm. Khi nào con trâu, con bò đó đẻ được một con, bà con nuôi lớn rồi trả lại trâu, bò mẹ cho ông. Cách làm hợp lòng dân của Sín Phù lại có hiệu quả, chẳng mấy chốc đàn trâu, đàn bò đã được nhân rộng ra toàn bản. Bà con vừa có sức kéo lại vừa có một tài sản lớn trong nhà. Vừa rồi, Sín Phù còn làm một việc khiến cả xã khâm phục là bán bớt bò đi để mua một cái ô tô tải. Cái ô tô này chở hàng từ xuôi lên bán cho bà con, giúp bà con đem hàng xuống chợ huyện để bán. Sín Thầu vì thế mà bắt đầu có kinh tế hàng hóa.
Còn anh Sừng Khai và ông Dần Sinh đã vận động người dân bỏ nương xuống làm ruộng, nhưng điều tưởng như đơn giản đó bà con đâu có làm theo ngay. Từ bao đời nay bà con quen tra hạt ngô, hạt thóc trên nương, giờ thay đổi đâu có dễ. Không cần nói nhiều, Pờ Dần Sinh và Sừng Khai cứ làm để cho mọi người thấy kết quả rồi làm theo. Sau mỗi vụ thu hoạch lúa, nhà Sừng Khai và Dần Sinh ăn không hết, nấu rượu uống cũng không hết. Thế là mọi người bắt đầu học cách be bờ, tát nước, cày ruộng... Nhà nào không có thóc giống thì được cho vay. Chẳng mấy chốc tập quán canh tác bao đời của người Hà Nhì ở Sín Thầu đã dần thay đổi. Nhà nào cũng cấy ruộng, mỗi vụ thu được vài tấn thóc.
Có điều, bà con vẫn thu hoạch theo kiểu lúa nương, chuốt từng bông bằng tay rất mất thời gian. Năm 2002, Sừng Khai tự bỏ tiền mua một chiếc máy tuốt lúa ở thị trấn Mường Tè đem về Sín Thầu. 15 trai bản đã chung sức kéo nguyên cỗ máy theo hành trình ngược dốc Tà Tổng, xuống dốc Nậm Dính về Nậm Sin và thẳng tiến tới Sín Thầu. Được nửa đường, vì đường quá dốc, lại chỉ là đường mòn nhỏ men theo vách núi, con suối nên cỗ máy buộc phải tháo ra từng bộ phận để khiêng về. Nghe tin có cỗ máy có thể tách hạt lúa ra khỏi thân mà không cần dùng tay để tuốt, cả bản bỏ việc đến xem. Mấy người phụ nữ chạy ào xuống ruộng gặt vài ôm cho vào máy chạy thử. Thế là lần đầu tiên người Hà Nhì ở Sín Thầu nghe và thấy cái “máy tuốt lúa” nó hoạt động như thế nào. Đến nay, diện tích lúa nước ở Sín Thầu tăng vọt. Sau gần chục năm kiên trì vận động, giờ toàn xã có hơn 200ha ruộng nước. Năng suất lúa luôn đạt 5-6 tấn/ha; cơ bản đã bảo đảm đủ lương thực cho đồng bào và có thêm một phần bán cho bộ đội biên phòng. So với các xã miền núi thì đây là một kỳ tích.
Bây giờ, Sín Thầu đang đổi thay từng ngày. Lợi thế của núi rừng màu mỡ cùng vị trí đắc địa ở "ngã ba biên giới" chắc chắn sẽ giúp Sín Thầu trở thành một xã cửa khẩu trù phú trong tương lai. Người Sín Thầu còn có niềm tự hào về những cánh rừng nguyên sinh hầu như còn nguyên vẹn. Có được kỳ tích đó cũng là nhờ tầm "nhìn xa, trông rộng" của "chiếc kiềng ba chân: Dần Sinh - Sừng Khai - Sín Phù". Từ cách đây 15 năm, ông Dần Sinh đã là người đi tiên phong trong việc vận động đồng bào nộp lại súng săn và bỏ thói quen đốt rừng. Nay những tay săn cự phách vang bóng một thời ở Sín Thầu như: Sùng Phì Sinh, Pờ Xí Tài, Chang Vắng Sinh... đều đã nghe lời cán bộ xã, tiên phong “giải nghệ” và chuyển hẳn sang làm mô hình kinh tế trang trại, chăn nuôi gia súc. Câu chuyện trên nghe như "cổ tích" và ở Sín Thầu là chuyện thường ngày mà bà con Hà Nhì vẫn kể cho con cháu nghe để học hỏi, làm theo.
Bài, ảnh: TRẦN VĂN HÙNG