Giáo sư Vũ Khiêu là học giả lớn, một trí thức tiêu biểu của đất nước. Ông là nhà khoa học vinh dự nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu tiên, được phong danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới, là một trong 11 công dân ưu tú của Thủ đô bình chọn dịp 1000 năm Thăng Long - Hà Nội... Nói về cái "duyên" của mình với cách mạng và các đồng chí của mình, ông tâm sự: "Kẻ sĩ khi gặp được người tri kỷ thì chỉ biết lấy hết tấm lòng mà đền đáp...".
“Triết gia trong cách mạng”
Cuộc đời của Giáo sư Vũ Khiêu là tấm gương của tinh thần học tập, mà chủ yếu là tự học và lao động, cống hiến hết mình. Ông được định vị như một học giả uyên bác, đa diện, một nhà khoa học xã hội, nhà văn hóa nổi tiếng, được mọi người yêu mến, kính trọng.
 |
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tặng Giáo sư Vũ Khiêu bức tranh đồng có câu đối: "Triết gia trong cách mạng/ Nghệ sĩ giữa anh hùng". Ảnh chụp lại
|
Trong lĩnh vực triết học, Giáo sư Vũ Khiêu là người có công đầu trong việc xây dựng ngành Đạo đức học và Mỹ học ở nước ta. Với tư duy độc lập, sáng tạo, ông là một trong những người mở đường cho hướng đi mới trong việc xây dựng các ngành khoa học xã hội Việt Nam, đặc biệt là về văn hóa, về con người. Ông là người đi đầu trong việc nghiên cứu văn hóa từ chiều sâu của triết học. Với ông, văn hóa không chỉ là sản phẩm sáng tạo của con người mà còn là phương thức tồn tại của chính con người, làm cho con người trở thành người. Văn hóa chẳng thể tách rời con người. Triết học về văn hóa cũng chính là triết học về con người.
Giáo sư Vũ Khiêu có biệt tài là đã thể hiện thành công nhiều vấn đề lý luận phức tạp, khô khan bằng bút pháp rất nhẹ nhàng, hấp dẫn. Các bài viết của ông trong những năm 60 của thế kỷ trước về chủ nghĩa anh hùng phong kiến, về nghệ thuật của nhân loại từ tiếng khóc bi kịch đến bài ca anh hùng đã để lại ấn tượng mạnh mẽ đến tận ngày nay. Đó là hình ảnh mà ông dùng để miêu tả những dòng nước mắt anh hùng của A-lếch-dăng khi đọc truyện về A-sin, của Xê-da khi đứng trước tượng của A-lếch-dăng 200 năm sau và nhận xét của ông về cội nguồn những dòng nước mắt ấy, khiến người đọc không thể nào quên về động cơ tạo nên các anh hùng trong lịch sử. Hay như hình ảnh mà ông dùng để nói về dòng lệ của Nguyễn Du chảy quanh thân Kiều, về dòng lệ của Kiều trước mộ Đạm Tiên và ông rút ra nhận xét, phân biệt cái ủy mị với cái bi, phân biệt cái làm cho người ta gục đầu xuống và thủ tiêu đấu tranh với cái thôi thúc người ta suy nghĩ, yêu thương và hành động… Hay như tác phẩm của Các Mác: Lời nói đầu của Phê phán Triết học pháp luật của Hê-ghen, tác phẩm đặc biệt quan trọng nhưng cũng là tác phẩm khó đọc nhất được Giáo sư Vũ Khiêu viết bài giới thiệu đăng trên Thông báo Triết học số 7, tháng 12-1967 cũng là một mẫu hình của một bút pháp bậc thầy. Sự khó khăn, phức tạp của tác phẩm ngoài lý do vì cách diễn đạt hồi bấy giờ, mà còn để hiểu những điều Mác viết còn cần có những hiểu biết về lịch sử phê phán tôn giáo Đức từ thế kỷ XVI, về lịch sử phát triển của xã hội Đức và Pháp từ giữa thế kỷ XVIII và lịch sử triết học ở Đức từ đầu thế kỷ XIX, nhất là Triết học pháp quyền của Hê-ghen. Tuy nhiên, Giáo sư Vũ Khiêu đã làm bật những tư tưởng chủ đạo của tác phẩm bằng ngôn ngữ trong sáng, gần gũi. Giáo sư Lê Hữu Tầng, nguyên Phó giám đốc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia khẳng định: “Trong số các tài liệu mà tôi đã đọc, tôi vẫn coi bài giới thiệu của Giáo sư Vũ Khiêu là bài hay nhất, đầy đủ, rõ ràng và dễ hiểu nhất…”.
Bên cạnh Triết học, Giáo sư Vũ Khiêu còn là người sáng lập ra Viện Xã hội học, khai sinh và gây dựng nên ngành Xã hội học - một chuyên ngành trẻ nhất trong số các chuyên ngành khoa học xã hội ở Việt Nam. Sau năm 1975, ông đã bắt tay vào chuẩn bị cho việc thành lập Ban Xã hội học, điều mà ông đã nung nấu từ lâu. Theo Giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học thì tầm nhìn và tư duy năng động của Giáo sư Vũ Khiêu vốn đã không sao chấp nhận được sự thiển cận của một thời xem Xã hội học là môn học tư sản, nhưng bằng sự lịch lãm kinh nghiệm của một người làm chính trị, ông biết là chưa thể nói ra, nhưng vẫn luôn nung nấu ý tưởng đó. Và, khi điều kiện đã chín muồi, ông đã đề xuất và trực tiếp đứng ra thành lập Ban Xã hội học trực thuộc Ủy ban Khoa học xã hội…
Nhà khoa học và nghệ sĩ
Giáo sư Vũ Khiêu không chỉ thành công trong các lĩnh vực triết học, đạo đức học, văn hóa học, lý luận văn học - nghệ thuật… mà ông còn là người viết các bài phú, văn tế và câu đối nổi tiếng. Giới sáng tác văn học thơ ca cổ điển đã suy tôn ông như một bậc thầy về thể văn phú, bởi lẽ từ Cách mạng Tháng Tám 1945 đến nay, Giáo sư Vũ Khiêu vẫn đi đầu trong thể loại đặc biệt này, nhất là thể hiện đề tài về lịch sử, về văn hiến dân tộc. Ngay từ khi còn trẻ, Vũ Khiêu đã viết hai bài phú được truyền tụng. Đó là “Truy điệu những lương dân chết đói” (3-1945) và “Văn tế anh hùng liệt sĩ của Cách mạng Tháng Tám” (8-1946). Sau này, ông lại có tiếp: “Phù Đổng Thiên Vương phú”, “Văn tế danh nhân văn hóa Nguyễn Quý Tân”, “Văn tế cụ Hoàng Trung Đặng Huy Trứ”, “Văn bia Lý Thái Tổ ở Hoa Lư” và gần đây là bài văn tế trong ngày Giỗ tổ Hùng Vương. Giáo sư Vũ Khiêu cũng đã soạn rất nhiều văn bia, văn tế, cùng hoành phi, câu đối tại rất nhiều đền thờ danh nhân và đài tưởng niệm liệt sĩ trong cả nước, để ca ngợi khí phách anh hùng, tâm hồn cao đẹp của các anh hùng đã hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc. Ông cũng tặng chữ, câu đối cho nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các học giả, bạn bè, đồng nghiệp... Ông tặng nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười, người đã giác ngộ và giới thiệu ông vào Đảng chữ “tri” (hiểu biết), tặng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng câu đối: “Tổ quốc canh tân đánh thức tiềm năng thiên cổ dậy/Toàn cầu hội nhập vươn cao trí tuệ vạn trùng xa”. Giáo sư Trần Văn Khê đã mang câu đối của Giáo sư Vũ Khiêu tặng, về treo ở chỗ trang trọng trong tư thất ở Pa-ri (Pháp).
 |
Giáo sư Vũ Khiêu giảng bài đầu trong khóa Triết học mở tại Ủy ban Khoa học Xã hội (1962).
|
Giáo sư Vũ Khiêu cũng hay làm thơ. Thơ ông chan chứa tình người, tình đồng chí. Đọc mấy câu thơ từng viết, ông cười: “Trong thơ mình, tôi cũng muốn “nắng tắt sớm, ngày trôi nhanh” để sớm tới cuộc hẹn hò. Nhìn qua, ai cũng tưởng thơ tình, nhưng thực chất đó là cuộc gặp mặt cùng những người đồng chí của mình”. Ở bài thơ “Xanh”, Vũ Khiêu có những dòng thơ giàu cảm xúc: “Cho anh ca màu xanh/ Từ mắt em chan hòa ánh biếc/ Từ ngày mai trong lành/ Một màu xanh… / xanh biếc… Bao giờ đọc thơ anh/ Có thấy lòng anh/ Từ những lời,/ em ơi,/ xanh biếc/ màu xanh!”. Nói về Giáo sư Vũ Khiêu, người thầy, thủ trưởng một thời của mình, Giáo sư Tương Lai viết: “Ở đâu tôi cũng thấy cái chất nghệ sĩ quyện chặt trong phong thái nhà khoa học Vũ Khiêu, vì thế mà anh thật gần gũi, nhập cuộc, chan hòa với những con người của vương quốc “Cái đẹp”. Tôi thầm nghĩ, có lẽ cái chất nghệ sĩ ấy làm cho nhà khoa học Vũ Khiêu trẻ mãi và luôn ung dung, thư thái. Sự uyên bác làm nên nét độc đáo và có duyên của chất nghệ sĩ và dường như lúc nào cái duyên của chất nghệ sĩ ấy trỗi mạnh hơn lên thì tôi lại thấy thích anh hơn, gần anh hơn và trọng anh hơn. Ấy là tôi cảm thấy thế, cảm thôi, chứ không giải thích được”…
Giáo sư Vũ Khiêu (tên thật là Đặng Vũ Khiêu), sinh năm 1916 tại huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Ông từng giữ nhiều chức vụ như Phó giám đốc Thông tấn xã Việt Nam, Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội, Viện trưởng Viện Triết học... Tác giả của nhiều công trình nghiên cứu, trong đó có “Cao Bá Quát” (1970), “Ngô Thì Nhậm” (1976), “Nguyễn Trãi” (1980), “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng của người trí thức Việt Nam” (1980), “Bàn về văn hiến Việt Nam” (3 tập, năm 2000)... Ông nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 1 (năm 1996) và danh hiệu “Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới” năm 2000.
|
Trần Hoàng Tiến