Lớp học tình thương của cô Hạnh

Bây giờ, người phụ nữ ấy đã bước qua tuổi “ngũ thập tri thiên mệnh”, nhưng vẫn vẹn nguyên khát vọng cháy bỏng thuở nào, truyền chữ cho những đứa trẻ vạn đò để nuôi dưỡng chúng nên người. Lặng lẽ, miệt mài, hơn 30 năm qua, cô tự nguyện gắn cả tuổi thanh xuân làm người “đưa đò miễn phí” chở từng lứa học trò nghèo “qua sông”. Cô là Bạch Thị Ngọc Hạnh, ở khu vực 6, phường Kim Long, thành phố Huế.

Dạy “lũ quỷ sứ’’nên người

- Anh đến giờ này chắc khó mà gặp cô Hạnh, người như cô ấy bận rộn suốt ngày. Chừ hẳn cô đang đi đến thăm các cháu học sinh nghèo động viên các cháu tới lớp. Tối anh đến chắc ăn hơn...

Vừa chớm đất Kim Long hỏi nhà cô giáo Hạnh, anh xe ôm mến khách đã vội “cảnh báo” với tôi.

Có vẻ như ở đây ai cũng rành về cuộc sống và công việc của cô, còn nắm rõ ngọn ngành lịch cô đi về.

Nghe lời, tôi tìm đến nhà cô lúc trời vừa nhá nhem tối, xóm định cư vạn đò Kim Long lác đác lên đèn. Cô vừa dựng chiếc xe góc sân, vồn vã:

- Chú đến không báo trước để tui có thời giờ tiếp chú. Mần ri lát nữa cơm nước xong vô giờ học rồi. Thôi, cứ tranh thủ nói chuyện đi hè…

Lật đật chuẩn bị bữa cơm tối, cô cứ ngồi bên thềm vặt rau, chủ khách không câu nệ, câu chuyện vẫn thật gần gũi.

- Cũng tình cờ thôi chú à, dạo đó tui mới vừa học xong phổ thông định thi đại học hay kiếm ngành nghề gì kiếm sống. Ngờ đâu, tui lại “bén duyên” với lũ trẻ từ đó đến giờ không dứt ra được - Cô khởi chuyện.

Dạo đó, đất nước vừa mới giải phóng, khu vực bến Me nằm bên bờ bắc sông Hương là tụ điểm của các tệ nạn xã hội. Người ta còn kể lại rằng gái làm tiền đêm đêm lượn lờ bến Me, công viên Phu Văn Lâu đông như họp chợ. Dân vạn đò sau một ngày kiếm ăn cũng về đây đậu thuyền. Trẻ con vạn đò lên bờ chơi lân la mấy ả làm tiền chọc ghẹo. Cứ kiểu này thì nguy, trẻ con hư hỏng hết, phận nghèo chúng chẳng được học hành, chữ i, tờ bẻ đôi không biết. Bắt gặp cảnh đó, nhiều đêm Hạnh trăn trở không ngủ được. Lẽ ra, trái tim tuổi mười tám, đôi mươi bắt đầu rung cảm biết yêu thì Hạnh lại cảm thông với những cảnh đời éo le của trẻ nhỏ. Phong trào xóa mù chữ được Đoàn thanh niên phát động. Đêm đêm, Hạnh tham gia tình nguyện dạy chữ.

Ban đầu, lớp được mở ra thực chất cũng chỉ để sinh hoạt giáo dục là chính chứ chưa dạy chữ. Bàn ghế, sách vở không có, biết lấy gì để dạy? Tận dụng cái nhà kho Hợp tác xã làm lớp, cứ mỗi tối Hạnh đến từng đò động viên, gọi các em đến lớp.

Chương trình dạy học chủ yếu là bảo ban các em… cách làm người-Cái mà bọn trẻ quá thiếu. Nhiều người ban đầu không tin Hạnh có thể làm được. Làm gì có chuyện bọn trẻ nghịch như quỷ sứ đêm đến chui rúc bờ bụi rình gái làm tiền mà đòi nói chuyện đạo đức với chúng? Nhiều gia đình thì bảo: “Ui cha, học làm chi, để chúng rảnh tay còn bồng em giúp ba mẹ. Ba mẹ bận bịu chài lưới suốt ngày, công mô mà giáo dục, cứ nói không nghe là roi mà trị…”. Có lúc nản tưởng bỏ cuộc, nhưng rồi Hạnh lại không cam tâm bỏ mặc ngồi nhìn các em ngày càng sa đọa, sẽ là gánh nặng cho xã hội. Kiên trì mãi, mấy đứa hư hỏng sau một thời gian học lớp cô Hạnh bỗng ngoan đáo để. Họ đâm ra tò mò, xem cái cô Hạnh này có phép chi mà hay rứa? Thế là sau đó nhiều gia đình cũng đánh tiếng xin cho gửi con nhờ cô Hạnh bày giùm.

- Thế cô có “phép” thật à? - Tôi đùa.

- Phép gì đâu chú, bằng tình thương và trách nhiệm thôi. Tui nghiệm ra một điều, các em bị thiếu giáo dục và sự quan tâm cho nên muốn giáo dục có hiệu quả phải có phương pháp thích hợp.

- Có nghĩa là…?

- Không được dùng vũ lực, hắt hủi, làm các em tủi thân. Phải cảm hoá các em bằng những lời lẽ nhẹ nhàng, lâu ngày hình thành cho chúng tình thương yêu, giúp đỡ nhau. Giáo dục nhắc nhở chúng không nói tục, chửi bậy, biết giữ gìn vệ sinh, sống có nghĩa hiếu…

Sau một thời gian, học trò đã biết nghe lời, cô mới bắt đầu dạy chữ. Đến buổi cầm tay từng em tập nắn nót từng dòng. Tiếng ê, a đánh vần rộ lên bên bến sông…

Chừng hơn tám năm trôi qua, hàng trăm học sinh được cô Hạnh giáo dục nên người. Bọn trẻ ngày nào còn quần xà lỏn, cởi trần đã qua phổ cập cấp 1. Ngoảnh lại chợt giật mình tuổi xuân đã bước qua tự thuở nào, trái tim tươi trẻ… “quên” yêu bắt đầu trỗi dậy.

- Lúc ấy mình đã chợt nghĩ có lẽ cuộc đời mình rồi sẽ khép chặt hạnh phúc riêng tư để dành cho các em. Cô Hạnh nén tiếng thở dài.

Năm 1984, cảm thông trước hoàn cảnh của cô, anh thanh niên nghèo Trần Văn Đấu đã đem lòng yêu mến. Hạnh phúc đến tuy muộn mằn nhưng cũng đã bù đắp và chắp cánh cho ước vọng trồng người của cô.

Một năm trôi qua, bộn bề với việc gia đình tưởng chừng phải từ giã đám trẻ vạn đò nhưng nỗi nhớ trẻ và khát vọng truyền chữ trỗi dậy, cô lại tiếp tục mở lớp.

Ngày qua ngày, sáng chồng đẩy xe đi, vợ xuống chợ Đông Ba nhận hàng về may vá, rồi cuốc vườn trồng rau. Tối chong đèn dầu khét lẹt cùng đám trò nghèo đánh vật từng con chữ. Cuộc sống khốn khó trăm bề, nhưng cô vẫn không than phiền nửa tiếng. Dịp đó, cô còn tham gia làm cộng tác viên dân số ở BCH Hội phụ nữ phường rất nhiệt tình.

Năm 1995, khu vực bến Me giải toả, gia đình cô chuyển lên khu định cư Kim Long cùng dân vạn đò. Nhớ “nghề cũ”, một lớp học được bà con dựng lên bằng tranh tre, nứa lá. Con em xóm tái định cư vạn đò lại ngày ngày đến “ngôi trường”, nơi chỉ có một lớp và chỉ có một cô giáo.

Cưu mang phận người

Đêm Kim Long rộn rã tiếng í ới trẻ con gọi nhau đi học. Tôi theo chân cô ra đứng phía sau lớp học. Mới bảy giờ tối, học trò đã trật tự vào bàn chờ cô tới. Thấy khách lạ, bọn trẻ nháo nhác nhìn quanh, xì xào rồi nhất loạt vòng tay chào lễ phép.

Cô vào lớp, cái dáng vẻ tần tảo nắng mưa, sương gió vẫn còn ẩn khuất sau gương mặt nhân từ và nụ cười hiền hậu khi cô chào đáp lễ với học sinh.

Tôi tranh thủ dạo quanh một vòng khu định cư, nhiều nhà bây giờ mới dọn mâm cơm tối. Gia đình anh Trần Văn Bình đang quây quần bên mâm cơm chỉ có rau muống luộc với đĩa tép khô. Ba đứa trẻ lem nhem cúi đầu húp nước muống. Anh Bình nói giọng hơi nghèn nghẹn:

- Đứa lớn học lớp cô Hạnh, ưu tiên nó ăn trước để kịp học đúng giờ. Mấy đứa ni rồi cũng gửi nhờ cô Hạnh dạy giùm. Chú tính, mấy đứa nheo nhóc, mà nhà tui thì nghèo lấy tiền mô để đi học. May mà có cô Hạnh…

- Thế học lớp cô Hạnh anh đóng bao nhiêu tiền học phí cho cháu mỗi tháng?

- Học phí gì chú, cô Hạnh dạy học miễn phí mà. Dạo trước cũng có lần cô thử bọn tui. Cô bảo mỗi ngày đóng một nghìn đồng. Thế là mấy đứa trẻ đưa tiền đến nhưng khi cô hỏi thì chúng bảo là tiền ăn sáng nhưng nhịn để nộp cho cô. Cô khóc, rồi cô bảo các em đưa về. Từ đó không bao giờ cô nói đến chuyện tiền nong. Bọn tui cũng tính chuyện giúp đỡ cô chút ít nhưng cô kiên quyết không nhận. Bà con xóm vạn đò chúng tôi mang ơn cô nhiều lắm…

Khoé mắt anh Bình ươn ướt.

Nhiều gia đình khi con lớn lên đem đến nhờ cô Hạnh dạy dùm mới té ngửa con mình không có giấy khai sinh. Bận việc chạy cơm họ đâu nghĩ tới chuyện giấy tờ. Thương tình, cô Hạnh còn giúp làm cả giấy khai sinh cho các cháu.

Tôi ngồi nhẩm tính, hơn 30 năm, cứ mỗi năm một lớp 30-40 em, chí ít cũng có đến gần cả nghìn em được cô dạy dỗ, bảo ban nên người. Trong số đó, nhiều em nay đã có vợ, có chồng. Nhiều em đã lớn, đi làm ăn thành đạt nhờ bàn tay và tấm lòng nhân từ của cô cưu mang. Nhiều em vì gia đình hoàn cảnh nên chỉ học xong chương trình ở lớp cô Hạnh biết đọc, biết viết là đi làm phụ giúp gia đình nuôi em. Những em có điều kiện thì học xong lớp tình thương ban đêm của cô Hạnh, cô làm thủ tục chuyển sang học cấp 2 công lập ban ngày. Em Thủy, ba mất, ở với ông bà, hằng ngày bán nước ở chợ Đông Ba. Thủy nghẹn ngào: “Em cũng muốn học lên nhưng không có tiền. Cô Hạnh đã thương yêu em như con. Suốt đời này em không bao giờ quên ơn cô, cô như người mẹ thứ hai của em”.

Đôi mắt hàm ơn của chị Nguyễn Thị Gái ướt lệ, chị có hai đứa con theo học cô Hạnh suốt bốn năm, chị nói:

- Nhờ ơn cô Hạnh mà bọn trẻ xóm vạn đò chúng tôi mới biết được cái chữ. Chừ thấy chúng nó tự viết được cái tên, tính toán được cộng, trừ, nhân, chia là tụi tui mừng lắm. Mà mấy đứa cũng ngoan hẳn đi, biết nghe lời, lễ phép với ba mẹ. Nếu không có cô Hạnh dạy dỗ chắc con tui trở thành bụi đời, trộm cắp mất chú ơi.

Tôi ra đứng bên bờ bến Me cố tìm lại hoài niệm xưa về những đứa trẻ vạn đò lấm lem đất cát bên bến sông thuở nào. Đêm yên tĩnh lạ, trăng thượng tuần tháng 8 như cái lưỡi liềm treo lơ lửng phía đỉnh đồi Vọng Cảnh, sông Hương loang loáng ánh bạc. Thảng hoặc nghe có tiếng trẻ ê a đánh vần vọng lại. Dư âm từ quá khứ vọng lại hay từ trong lớp học vách đất kia vọng ra? Tôi chợt hiểu, có gì đâu, với cô, đấy cũng chỉ là một đêm bình thường trong chuỗi hành trình lặng lẽ đưa đò chở những đứa trẻ qua sông của cô Hạnh đấy thôi.

Huế - Hà Đông ngày Quốc khánh 2008.

Bài và ảnh: PHAN THẾ HIỂN