Khi Báo Nhân Dân, Báo Quân đội nhân dân Báo Lao Động phối hợp phát động cuộc thi viết “Những tấm gương bình dị mà cao quý”, tôi nghĩ ngay đến các chiến sĩ biên phòng đang ngày đêm âm thầm vượt lên mọi khó khăn, thách thức, cùng đồng bào thực hiện nhiệm vụ vẻ vang: Xây dựng biên cương yên bình và hữu nghị. Tiếc rằng, vì nhiều lý do nên tôi chỉ kịp viết tác phẩm “Lão nông biên phòng” để tham dự cuộc thi. Trong bài viết này, tôi muốn kể về những tấm gương bình dị mà cao quý khác, tôi đã gặp, đã biết mà chưa kịp viết thành tác phẩm.

Đưa cả gia đình đi “cắm bản”

Biết tôi đang đi tìm những tấm gương cán bộ, chiến sĩ biên phòng tiêu biểu trên “mặt trận” giúp dân xóa đói, giảm nghèo, Đại tá-Tiến sĩ Đỗ Ích Báu, Phó chính ủy Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh Quảng Nam giới thiệu với tôi về Đại úy Nguyễn Xanh. Anh Xanh là cán bộ được Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh Quảng Nam cử đi tăng cường cho các xã biên giới đã hơn 10 năm nay. Ở đâu anh cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giúp đồng bào thay đổi tập quán sản xuất. Xanh còn làm một việc “ngược đời” nữa là động viên vợ, là giáo viên đang dạy học tại thành phố Đà Nẵng cùng lên biên giới làm giáo viên “cắm bản”, góp phần giúp đồng bào nâng cao dân trí. Hỏi Xanh về những việc anh đã làm trong hành trình hơn 10 năm “cắm bản”, giúp dân, anh tâm sự: "Trước thực tế canh tác sản xuất lạc hậu của đồng bào, tôi nghĩ việc đầu tiên cần làm là phải bảo đảm cho dân có đủ cái ăn, không còn bị đói nữa. Đó là việc làm bình thường của người cán bộ tăng cường cơ sở…".

Địa phương đầu tiên Xanh đến “cắm bản” là xã La Dê, huyện Nam Giang (Quảng Nam). Tại đây, Nguyễn Xanh được bầu giữ chức Phó chủ tịch UBND xã. Qua khảo sát, thấy địa phương có nhiều diện tích có thể khai hoang trồng lúa nước; bằng kiến thức thu được từ các lớp tập huấn khuyến nông, khuyến lâm của Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh và qua kinh nghiệm tiếp thu của một số đồn biên phòng các tỉnh phía bắc, Xanh trực tiếp vận động một số hộ gia đình lựa chọn vùng đất trũng, có điều kiện về thủy lợi, dọn sạch cây rừng, cỏ rậm, cải tạo khử chua thông qua rắc vôi bột. Những vạt lúa nước thí điểm đầu tiên đã cho thu hoạch khá cao, nhiều bà con bắt đầu tin và thực hiện làm theo.

Thấy đồng bào dùng cuốc, cào làm đất quá vất vả, Xanh hướng dẫn đồng bào dùng trâu, bò làm sức kéo. Để thuyết phục dân, Xanh tham mưu Ban chỉ huy Đồn báo cáo UBND huyện, được Phòng Nông nghiệp huyện Nam Giang cấp vốn 6 triệu đồng. Xanh về tận quê mình ở huyện Đại Lộc tìm mua một con trâu, dắt bộ ngày đi, đêm ở nhờ nhà dân dọc đường.

Cán bộ, chiến sĩ Đồn biên phòng 657 (Quảng Nam) hướng dẫn đồng bào Giẻ Triêng kỹ thuật cấy lúa nước.

Khi vượt ngầm Tà Un, xã Chà Và bằng bè, vì quá nặng cả người và trâu suýt bị chìm xuống sông. Về đến xã La Dê mất 7 ngày qua đoạn đường khoảng 120km. Đồng bào không lạ gì con trâu, nhưng chưa bao giờ sử dụng trâu cày. Bằng sự kiên trì, Xanh hướng dẫn từng nhà cách cày, cách bừa. Có sức kéo, bà con dần đủ ăn và bây giờ đã có lương thực bán cho BĐBP. Tháng 4-2004, anh được cấp trên tăng cường về xã La Êê làm Đảng ủy viên, Phó chủ tịch UBND xã. La Êê là xã khó khăn nhất của huyện Nam Giang: Không có điện, điện thoại, chợ, chưa có đường ô tô tới xã, nhiều thôn xa đi bộ về xã phải mất cả ngày. Thời tiết ở đây vô cùng khắc nghiệt, mùa mưa bị cô lập hoàn toàn. Hệ thống chính trị ở La Êê hoạt động kém hiệu quả. Bằng ý chí, quyết tâm và sự nhiệt tình, một mặt, Xanh tự học để bổ sung kiến thức, mặt khác đi sâu thực tế, duy trì thực hiện nghiêm chế độ trực của công an, dân quân, y tế tại trụ sở; duy trì chế độ hội họp, giao ban, sinh hoạt Đảng đi đôi với từng bước phát huy vai trò lãnh đạo của các chi bộ và đảng viên. Anh cùng với tập thể cấp ủy, chính quyền tập trung lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa, xóa đói, giảm nghèo, tăng cường an ninh - quốc phòng. Sau 4 năm phấn đấu, từ một đảng bộ yếu kém, nay Đảng bộ xã La Êê đã đạt trong sạch, vững mạnh; UBND và các ban, ngành, đoàn thể của xã hoàn thành tốt nhiệm vụ; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt.

Bây giờ, cộng đồng người Giẻ Triêng ở biên giới Quảng Nam đặt tên Xanh cho những thành tựu mà bà con thu được, bò mẹ đẻ được bò con, ai hỏi, đồng bào nói là bò “Xanh”; cánh đồng lúa tươi tốt được trồng bởi loại giống mới, bà con cũng bảo đó là lúa “Xanh”.

Người nghe được “tiếng rừng”

Đến xã Đồng Tâm (Bình Liêu, Quảng Ninh) công tác, chúng tôi ngạc nhiên khi thấy đồng bào người Dao ở đây gọi Trung tá Tạ Đức Mộc, cán bộ biên phòng tăng cường cơ sở là Tằng Chi Mộc. Hỏi ra thì được biết, người Dao ở đây đều mang họ Tằng. Những người được dòng họ kính trọng thì có thêm tên đệm là Tằng Chi. Dân bản gọi anh là Tằng Chi Mộc, chính là bày tỏ sự quý mến, ghi nhận công lao đóng góp, giúp đỡ dân bản làm ăn, sống có tình, có lý và đúng pháp luật.

Gần 20 năm lăn lộn với đồng bào các dân tộc thiểu số ở huyện Bình Liêu, anh Mộc hiểu rõ chất đất của vùng biên cương này. Anh tham mưu cho chính quyền xã mời cán bộ lâm nghiệp về hướng dẫn bà con cách trồng, chăm sóc cây hồi, cây quế. Anh còn chủ động tìm cách giúp bà con tháo gỡ khó khăn trong thu hoạch, tiêu thụ sản phẩm. Nhờ vậy, đời sống của đồng bào ngày càng được nâng cao. Nói về anh, đồng chí Lèo Trung Phương, Bí thư Đảng ủy xã Đồng Tâm cho biết: "Là cán bộ biên phòng nhưng anh Mộc nói được 5 thứ tiếng dân tộc thiểu số nên luôn biết đồng bào thiếu gì, cần gì. Nhờ vậy, các ý kiến tham mưu của anh cho Đảng ủy, chính quyền đều đúng và trúng".

Trung tá Tạ Đức Mộc là một trong những cán bộ điển hình về tinh thần "giúp dân những việc thiết thực". Khả năng nói tiếng dân tộc thiểu số của anh tốt như vậy là nhờ 20 năm “ba cùng” thực sự, luôn “có việc đáng lo, lo trước đồng bào; có việc đáng vui, vui sau đồng bào”. Đồng bào người Dao ở đây còn nói: “Cán bộ Mộc không sinh ra ở núi rừng, nhưng nghe được tiếng rừng. Đất rừng nói cho biết những việc nên làm”.

Còn rất nhiều tấm gương khác...

Trong số những tấm gương “bình dị mà cao quý” ở Bộ đội biên phòng hiện nay, có một người có thể gọi là “giỏi tiếng Mông nhất toàn quốc” mà tôi đã có dịp giới thiệu ngắn gọn về anh qua bài “Giáo sư tiếng Mông”. Đó là Thượng úy Thao Duy Lênh, Đội trư­ởng Đội Vận động quần chúng thuộc Đồn Biên phòng Cửa khẩu quốc tế Na Mèo. Ngay trong lần đầu đi dân vận, Lênh đã nhận thấy rõ những khó khăn đối với các đồng đội không biết tiếng Mông. Trong khi, ở địa bàn đơn vị Lênh đóng quân, đồng bào Mông chiếm khoảng 82% dân số. Không hiểu tiếng đồng bào, cán bộ làm công tác vận động quần chúng rất khó nắm đ­ược tình hình hoặc nắm không sâu, không chắc. Từ thực tế đó, Lênh quyết tâm tự ôn luyện tiếng và chữ của đồng bào Mông. Lênh suy nghĩ: Trước hết là phục vụ nhiệm vụ chuyên môn của mình và nếu có điều kiện sẽ mở lớp dạy tiếng Mông cho đồng đội và cán bộ địa phư­ơng.

Sau hai năm tự học hỏi, Lênh có được kiến thức kha khá về ngôn ngữ dân tộc Mông. Anh mạnh dạn đề xuất mở lớp dạy tiếng Mông tại đơn vị. Được chỉ huy đơn vị đồng ý, Lênh bắt đầu “hành nghề” dạy học. Kết quả sau ba tháng, 70% cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị có thể nói chuyện với đồng bào bằng tiếng người Mông. Từ đó, hiệu quả công tác của đơn vị đư­ợc nâng cao, nhất là công tác vận động quần chúng.

Một lần, Lênh (dùng tiếng Mông) trực tiếp khai thác đối tư­ợng phạm tội ma túy. Qua khai thác, anh biết một nhóm buôn bán ma túy có vũ trang ngay trên địa bàn do đơn vị quản lý. Từ đầu mối ban đầu, chỉ huy đồn báo cáo tỉnh và Bộ chỉ huy BĐBP Thanh Hóa lập chuyên án đấu tranh với nhóm tội phạm này. Trong chuyên án đó, Lênh đư­ợc giao làm tổ trưởng tổ phục kích ở mũi chủ yếu trên đư­ờng vận chuyển ma túy mà đối tư­ợng đi qua biên giới. Lênh đã chỉ huy tổ bắt gọn các đối t­ượng, thu 40kg thuốc phiện và 2 bánh hê-rô-in.

Một thời gian sau, tại các bản ngư­ời Mông của tỉnh Thanh Hóa nổi lên hiện tư­ợng truyền đạo trái pháp luật vào đồng bào. Địa bàn của Lênh phụ trách có ba bản ngư­ời Mông sinh sống. Nhờ cả đội biết tiếng dân tộc Mông, nên Lênh và đồng đội kịp thời tuyên truyền đồng bào không nghe theo kẻ xấu, không bỏ phong tục, tập quán của tổ tiên (thờ ma nhà, ma cửa) để đi theo tà đạo. Vì vậy, địa bàn do đơn vị Lênh phụ trách gồm 212 hộ với 1.096 khẩu vẫn giữ đ­ược phong tục, tập quán văn hóa của ngư­ời Mông.

Thấy rõ hiệu quả từ lớp học của Lênh, Đảng ủy, Bộ chỉ huy BĐBP Thanh Hóa báo cáo với Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh cho phép mở các lớp dạy tiếng Mông cho các đơn vị bộ đội và cán bộ, công chức một số ngành ở 5 huyện biên giới. Lớp học đầu tiên khai giảng có 43 học viên, với ba thầy giáo là cán bộ biên phòng do Thượng úy Thao Duy Lênh phụ trách. Từ thành công của lớp học này, UBND tỉnh Thanh Hóa giao cho Sở Nội vụ phối hợp với Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh tiếp tục mở các lớp dạy tiếng Mông. UBND tỉnh Thanh Hóa cũng quyết định dùng chứng chỉ tốt nghiệp lớp tiếng Mông do Lênh đảm nhiệm thay chứng chỉ ngoại ngữ chuyên viên chính của cán bộ, công chức tỉnh Thanh Hóa công tác trên địa bàn biên giới.

Với “uy tín” của mình, Lênh đư­ợc mời làm Tổ trư­ởng Tổ biên soạn giáo trình dạy tiếng dân tộc Mông tại Sở Nội vụ tỉnh Thanh Hóa. Sau 5 tháng nghiên cứu, nhờ kiến thức có sẵn và tìm tòi tài liệu tham khảo, Lênh và đồng đội soạn được 76 bộ giáo trình hoàn chỉnh về cấu trúc ngữ pháp, từ đơn giản đến phức tạp có phiên âm La-tinh Mông Đơ, Mông Lành và Mông Đu. Sau nhiều lần hội thảo giữa Bộ chỉ huy BĐBP, Sở Nội vụ và Sở Giáo dục và Đào tạo, tập giáo trình của Lênh và đồng đội biên soạn đ­ược trình lên Bộ Giáo dục và Đào tạo phê chuẩn, dùng làm tài liệu giảng dạy các lớp bồi dưỡng tiếng Mông trên toàn quốc. Thành công ấy khiến ai cũng khâm phục, gọi Lênh bằng biệt danh trìu mến: “Giáo sư tiếng Mông”. Còn Lênh thì nói rằng, anh chỉ muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ biên giới quê hư­ơng.

Cũng trong hành trình đi tìm những tấm gương “bình dị mà cao quý” trong bộ đội biên phòng, tôi đến Đồn biên phòng 493 (Pù Nhi, Mường Lát, Thanh Hóa), được tận mắt chứng kiến thành quả của xây dựng mô hình "vườn-ao-chuồng-ruộng" do Trung tá Nguyễn Văn Hiếu, Đồn trưởng, làm “chủ đề tài”. Từ thực tế canh tác lạc hậu của đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng Mường Lát, Trung tá Nguyễn Văn Hiếu đã quyết tìm ra loại cây giống phù hợp chất đất vùng này để xóa đói, giảm nghèo cho đồng bào. Anh đã tìm ra phương pháp trồng ngô hai vụ, xen canh rau đậu, đào ao thả cá, chăn nuôi dê, bò, rồi tổ chức cho đồng bào trên địa bàn đến tham quan và hướng dẫn quy trình, kỹ thuật để đồng bào làm theo. Đến nay, đồng bào đã xóa bỏ được tập quán canh tác cũ, chuyển sang làm ăn theo mô hình của BĐBP, đời sống nâng lên rõ rệt. Tính thiết thực, hiệu quả trong giúp đỡ nhân dân xóa đói, giảm nghèo của BĐBP đã chiếm được niềm tin của nhân dân và cấp ủy, chính quyền địa phương…

Một năm chuyên tâm theo dõi, tìm tòi các tấm gương trong lực lượng BĐBP đã giúp tôi phát hiện nhiều điển hình, điển hình nào cũng khiến tôi khâm phục và tự hào. Tôi cứ nghĩ: Nếu đi tìm trong toàn xã hội, chắc sẽ còn nhiều tấm gương bình dị, làm những việc bình thường nhưng đáng quý, đáng phục biết bao. Họ chính là những “con người mới” để chúng tôi học tập và tự hào.

Bài và ảnh: HỒNG HẢI