Ông Chí Cương, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang) giới thiệu với chúng tôi, ở xã Mai Trung có một người suốt hơn hai chục năm làm công việc quản trang-coi giữ phần mộ các liệt sĩ ở nghĩa trang liệt sĩ xã. Đó là cụ Ngô Văn Phước, 83 tuổi-một cựu chiến binh thời kháng chiến chống Pháp.

Tôi đến gặp cụ Phước vào một buổi đầu thu, tại nghĩa trang liệt sĩ, nơi mà cụ đã coi như ngôi nhà của mình vậy. Sau trận mưa đêm, trời trong trẻo lạ thường.

Khu nghĩa trang nằm trên một gò đất cao giữa cánh đồng thuộc địa phận thôn Cẩm Trang với gần 6.000m2, có 182 ngôi mộ liệt sĩ. Từ bên ngoài, ngắm toàn cảnh nghĩa trang, tôi thấy thật sạch sẽ, khang trang đẹp tựa như một công viên. Đài tưởng niệm đặt ở trung tâm có đắp nổi 4 chữ “Tổ quốc ghi công”, những hàng mộ được xây vuông vắn, mỗi ngôi đều được ốp gạch men bóng loáng, có bia đá khắc tên liệt sĩ, ngày sinh, ngày hy sinh...

“Mục thực sở thị”, tôi thấy đúng như lời nhận định của lãnh đạo Hội Cựu chiến binh huyện: Nghĩa trang liệt sĩ xã Mai Trung là một trong số nghĩa trang đẹp, khang trang nhất huyện Hiệp Hòa. Cụ Phước tuổi đã cao, dáng người mảnh khảnh, nhưng nước da vẫn săn, đôi mắt vẫn sáng, tai còn thính, răng mới rụng đôi ba chiếc. Nhìn cụ, tôi có cảm giác cụ vẫn giữ được tác phong của một người lính Cụ Hồ. Ngồi trong ngôi nhà quản trang, sau tuần trà, cụ mở đầu câu chuyện một cách rất hóm hỉnh là đọc cho tôi nghe một bài thơ có tựa đề “Yên tĩnh” do chính cụ sáng tác:

“Thế kỷ chia năm, chiếm bốn lô/ Mà xem gân cốt tựa lò xo,/ Mỗi sáng đánh bát phở bo,/ Con cháu yên tĩnh chả lo ngại gì/ Khi nào cứ thấy nằm ì,/ Ít ăn, ít nói tức thì chuyển kênh”.

- Phở bo là phở gì vậy cụ? – Tôi hỏi.

- À, tức là phở bò, nói theo thơ cụ Bút Tre ấy mà! - Cụ Phước cười khà khà giải thích.

- Thế còn “chuyển kênh” là thế nào ạ? - Tôi lại hỏi. Cụ Phước lại cười khà khà:

- Chuyển sang kênh 6 ấy mà!- Thấy tôi ngạc nhiên chưa hiểu, cụ tiếp - Tức là sang cái cỗ quan tài 6 tấm gỗ ấy. Tuổi cao, còn sức còn làm việc nghĩa, việc tình. Đến khi ăn chẳng muốn, nói không nên lời, chân tay rụng rời, thì phải “chuyển kênh” thôi! - Nghe cụ nói, cụ cười, tôi cứ thấy cảm phục cái sự lạc quan, hóm hỉnh, hài hước của cụ. Sau hồi chuyện tếu, cụ Phước bắt đầu kể cho tôi nghe chuyện của cụ, giọng cụ như khác hẳn, bao ký ức thời trai trẻ sôi nổi hiện về...

Cụ Phước ngày ngày lau chùi từng ngôi mộ...
Cụ gia nhập quân đội từ năm 1949. Trong chiến dịch Biên giới 1950, đơn vị gồm toàn chiến sĩ mới như cụ chỉ được tham gia chiến đấu ở vòng ngoài, chưa được xung trận. Đến chiến dịch Điện Biên Phủ, cụ là tiểu đội trưởng của một đơn vị pháo binh cùng với Anh hùng Lưu Viết Thoảng, quê ở huyện Yên Dũng cùng tỉnh. Sau khi bốt địch ở Bản Kéo bị ta tiêu diệt, trận địa pháo của đơn vị đặt ở đây, làm nhiệm vụ chi viện cho hướng tiến công phía tây Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và đã lập chiến công xuất sắc. Sau chiến dịch, cụ Phước được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhì-cụ cũng là người duy nhất trong xã Mai Trung được vinh dự nhận phần thưởng cao quý đó trong kháng chiến chống Pháp.

Năm 1958, cụ Phước giải ngũ về quê. Mới về được một tuần, xã đã mời cụ tham gia công tác địa phương, làm bí thư chi đoàn thanh niên xã. Rồi lần lượt làm chủ nhiệm hợp tác xã, trưởng ban tuyên giáo, kiểm tra Đảng... Có giai đoạn cụ làm Bí thư Đảng ủy xã (1974-1976). Sau đó cụ được chuyển sang làm công tác mặt trận, hội người cao tuổi. Cách đây hơn 22 năm (năm 1986), xã vận động cụ Phước ra làm quản trang nghĩa trang liệt sĩ, cụ không ngần ngại nhận ngay và đề nghị xã cử thêm 5 cụ nữa để thành lập một tổ, do cụ làm tổ trưởng, để vừa trông coi chăm sóc phần mộ, vừa trồng cây và bảo vệ nghĩa trang. Được xã nhất trí, tổ quản trang của cụ Phước ra đời từ đó. Dù khoản thù lao cho cụ và các tổ viên rất hạn hẹp, được trả bằng thóc theo mùa vụ, nhưng ai cũng rất nhiệt tình, tận tâm với công việc.

Việc đầu tiên của tổ quản trang là tu sửa 9 ngôi mộ bị sạt lở và sửa sang, dọn dẹp cỏ cây xung quanh. Khu nghĩa trang với gần 6.000m2 nhưng chưa có tường bao, dễ bị trâu bò vào phá. Các cụ tự nguyện mang rào gai nhà mình ra làm thành hàng rào bao quanh. Rồi công việc mà theo các cụ là vừa “vì lợi ích mười năm”, vừa làm đẹp cho nghĩa trang, đó là trồng cây, trồng hoa, tạo môi trường cảnh quan xanh-sạch-đẹp. Nhiều loại cây ăn quả, cây lấy gỗ, lấy bóng mát được các cụ trồng, chăm sóc chu đáo, nên chỉ sau vài năm, khu nghĩa trang đã trở nên xanh tươi bốn mùa, chim chóc về hót líu lo, khiến cho nơi đây bớt quạnh quẽ.

- Cụ nghĩ thế nào mà lại có thể làm quản trang suốt hơn hai mươi năm như thế? - Tôi buột miệng hỏi. Cụ Phước trả lời ngay:

- Cũng đơn giản thôi. Trước lúc nhận làm công việc này, mỗi lần đi qua đây, thấy nghĩa trang hoang sơ, tiêu điều quá, tôi thấy không yên lòng. Là một người đã từng cầm súng chiến đấu nơi chiến trường, từng chứng kiến sự hy sinh của đồng đội, tôi rất trân trọng máu xương họ đã đổ xuống cho hòa bình hôm nay. Tôi cứ có ước muốn rằng: Nghĩa trang liệt sĩ - nơi yên nghỉ vĩnh hằng của những người con thân yêu của Tổ quốc, phải khang trang, sạch đẹp cho xứng với tên gọi. Kinh tế địa phương còn chưa giàu, nguồn ngân sách trên cấp cho việc tu bổ còn hạn hẹp, nhưng nếu có tâm huyết mang chút công sức nhỏ bé của mình, cùng với việc huy động mọi người tham gia thì sẽ làm cho nghĩa trang khởi sắc thôi...

Chỉ tay vào bức tường bao quanh nghĩa trang được xây bằng gạch khá kiên cố, chát phẳng, vôi ve sáng sủa, cụ Phước kể:

- Bức tường này được xây từ chục năm trước. Lúc ấy, tổ quản trang chúng tôi mạnh dạn đề xuất với Đảng ủy, ủy ban nhân dân xã xây tường bao để thay hàng rào gai. Không ít người phản đối. Họ bảo, để xây được tường bao quanh diện tích gần 6.000m2 thì tốn kém lắm, làm sao mà có tiền để mà mua tới mười mấy vạn gạch, hàng tấn xi măng, vôi, hàng chục khối cát. Tiền mua vật liệu, tiền công nữa thì phải ngót nghét tỷ đồng. Tổ quản trang chúng tôi vẫn kiên quyết: Tiền có thể mất cả tỷ, nhưng so với máu xương của các liệt sĩ đổ xuống thì có thấm vào đâu. Không thể để nơi an nghỉ của liệt sĩ hoang sơ như thế được.

Thế là giải pháp được đưa ra, xin thêm trên đầu tư một phần, phần còn lại là huy động bà con nhân dân người góp của, kẻ góp công để cùng làm việc nghĩa. Quả đúng là, khi nhận thức đã thông, có quyết tâm và sự đồng thuận thì việc khó mấy cũng có thể thành công. Chỉ sau một thời gian, một bức tường bao quanh và chiếc cổng chính vào khu nghĩa trang đã được xây dựng hoàn chỉnh. Tiếp đến là việc tu bổ lại phần mộ, khắc bia đá... Vậy là tâm nguyện của những người lính già, của gia đình thân nhân liệt sĩ và nhân dân địa phương đã đạt được.

Cụ Phước dẫn tôi đi khắp một lượt những hàng bia mộ. Tôi bỗng thoáng thấy trên khuôn mặt cụ như có điều gì đó suy tư. Cụ bảo:

- Cứ những buổi chiều tà, tôi lại đi dạo quanh bên những ngôi mộ, lần nào lòng cũng xốn xang bao nỗi niềm. Tôi cứ cảm tưởng như mình đang đi giữa hàng quân nghiêm ngắn, trẻ trung chuẩn bị bước vào trận chiến đấu năm nào. Tôi là một trong số những người lính đã lành lặn trở về, được hưởng thành quả cách mạng các thế hệ xây đắp nên, cứ nao lòng khi nghĩ đến các anh, các chị đã ngã xuống. Lúc nào cũng một tâm niệm rằng mình phải làm được việc gì đó, dù là nhỏ, để bù đắp cho những hy sinh mất mát đó. Nay đã tuổi cao, sức yếu, con cháu can ngăn không muốn tôi làm quản trang nữa. Nhưng tôi không chịu. Còn sống, còn sức khỏe, tôi còn làm việc coi sóc phần mộ cho các liệt sĩ của xã...

Vâng, thật là một nghĩa cử giản dị mà cao đẹp của một người lính già. Việc làm của cụ Phước khích lệ cả làng, xã cùng chung tay góp sức vì đạo lý “uống nước nhớ nguồn”.

Năm 2005, nhân kỷ niệm ngày truyền thống Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Cựu chiến binh tỉnh Bắc Giang đã tặng cụ Ngô Văn Phước kỷ niệm chương với dòng chữ: “Trọn nghĩa nước non-Vẹn tình đồng đội”.

Chia tay rồi tôi còn ngoái lại nhìn dáng cụ thấp thoáng giữa những hàng bia mộ. Tôi thầm mong cụ còn khỏe mãi để làm tiếp việc nghĩa mà cụ đau đáu suốt mấy chục năm trời...

Bài và ảnh: DƯƠNG QUANG LUÂN