Luôn hướng về nhau

Đã trở thành thông lệ, vào dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, quân đội, ngôi nhà nhỏ của vợ chồng CCB Trần Thế Ngật luôn rộn vang tiếng cười của con cháu. Mỗi lần như thế, chuyện ông “tìm” được bà như thế nào và đám cưới "có một không hai" của họ được con cháu nhắc lại đầy ngưỡng mộ, tự hào... 

Vợ chồng ông Trần Thế Ngật cùng xem lại những lá thư viết cho nhau một thời. 

Tháng 3-1965, chàng thanh niên Trần Thế Ngật, quê ở Nam Hải, Tiền Hải, Thái Bình, lên đường nhập ngũ, được điều về Sư đoàn 308. Hai tháng sau, Trần Thế Ngật về Trung đoàn 219 rồi đi học tại Trường Trung cấp Quân y 1, Học viện Quân y (nay là Trường Cao đẳng Hậu cần 1 thuộc Tổng cục Hậu cần). Kết thúc khóa học, ông trở về đơn vị, làm nhiệm vụ tại Trạm xá Trung đoàn 219, đóng quân ở thôn Ninh Chấp, xã Thái Học (Chí Linh, Hải Dương). Và câu chuyện tình yêu của ông cũng bắt đầu từ đây.

Ông Ngật nhớ lại: “Ngày đó, thương binh được chuyển về tuyến sau thường gửi vào nhà dân để tiện chăm sóc. Công việc của tôi là hằng ngày đến thăm khám, điều trị cho thương binh. Một lần, tôi đến khám cho thương binh nặng đang gửi một gia đình ở thôn Ninh Chấp chăm sóc. Lúc xử lý vết thương, tôi đang loay hoay cần người hỗ trợ thì nghe thấy người nhà gọi: "Thảo ơi, ra hộ anh Ngật đi con!". Xử lý xong vết thương cho thương binh, lúc này tôi mới có dịp quay sang cảm ơn cô “hộ lý” bất đắc dĩ”. Cũng sau lần đó, Thảo tự nguyện trợ giúp Trần Thế Ngật mỗi lần anh đến điều trị hay thay bông băng cho thương binh.

Dáng người cao ráo, trắng trẻo, khuôn mặt ưa nhìn, cộng với tính cách sôi nổi, nhiệt tình, hay giúp đỡ người khác, cô gái Vũ Thị Thảo dần chiếm trọn trái tim chàng trai Trần Thế Ngật lúc nào không hay. “Để “tán” đổ bà ấy không phải chuyện dễ dàng, bởi ngày ấy, bà Thảo là hoa khôi của thôn, được nhiều người để mắt lắm. May mắn là tôi lại được gia đình bà ấy ủng hộ”, ông Ngật tự hào kể.

Tháng 11-1968, theo yêu cầu của cấp trên, đơn vị ông hành quân vào Hướng Hóa, Quảng Trị làm nhiệm vụ. Trước khi lên đường, cả hai chỉ kịp dùng ánh mắt thay lời hẹn ước. Vào chiến trường Quảng Trị đầy cam go, khốc liệt, liên lạc giữa hai người thường xuyên đứt quãng... nhưng họ vẫn luôn tin tưởng và một lòng hướng về nhau.

51 năm đã trôi qua, ông Ngật vẫn nhớ như in ngày 3-9-1971, khi ông cầm trên tay tờ giấy giới thiệu của đơn vị về Hải Dương chính thức thưa chuyện với bố mẹ bà Thảo. Trên giấy giới thiệu ghi rất rõ: “Kính gửi Ủy ban Hành chính xã Nam Hải, Tiền Hải, Thái Bình. Thủ trưởng đơn vị trân trọng giới thiệu đồng chí Trần Thế Ngật về việc xây dựng gia đình. Yêu cầu các cơ quan, chính quyền địa phương hết sức giúp đỡ đồng chí Ngật hoàn thành nhiệm vụ”.

Khi anh Ngật về đến Hà Nội thì trận lũ lụt khủng khiếp ập xuống các tỉnh phía Bắc, cắt đứt mọi giao thông đi lại giữa các tỉnh, không có cách nào báo tin cho người yêu, anh đành trở lại đơn vị. Sau đó, cô thanh niên Vũ Thị Thảo tình nguyện nhập ngũ vào Trung đoàn 2, Quân khu Tả Ngạn (nay là Quân khu 3), rồi được cử đi học tại Trường Trung cấp Quân nhu (Tổng cục Hậu cần); vào thực tế tại chiến trường Quảng Trị.

Vượt đường xa rước dâu bằng xe đạp

Từ dự định cho đến khi cả hai chính thức về một nhà kéo dài thêm 3 năm nữa. Tháng 9-1973, ông Ngật phục viên về công tác tại xã. Mới đảm nhận nhiệm vụ, trong khi khối lượng công việc nhiều, mặt khác, từ Thái Bình sang Hải Dương đi lại không thuận tiện nên ông Ngật chỉ liên lạc với bà Thảo qua những lá thư.

Nhắc đến đám cưới của mình ngày ấy, ông Ngật kể: “Bây giờ giao thông đi lại thuận tiện nên mọi người không thể hình dung được đám cưới của chúng tôi hồi đó như thế nào đâu. 4 xe đạp rước dâu gồm bố tôi, bác và hai người chú của tôi xuất phát lúc 4 giờ từ Hải Dương, cho đến 21 giờ 30 phút mới về đến Thái Bình-nơi tổ chức tiệc cưới. Quãng đường rước dâu dài 138km, đoàn dừng 5 chặng nghỉ. Tôi vẫn nhớ hình ảnh chú tôi là Nguyễn Văn Lập (ông là thương binh mất một cánh tay) cầm lái chiếc xe đạp chở kèm theo vật dụng, đồ dùng của cô dâu chỉ bằng một tay mà cứ đi phăng phăng, miệng cười hớn hở mừng cho cháu mình đã cưới được vợ”.

Về đến nơi, khách khứa tham dự đám cưới đã ăn cỗ và về từ lâu. Tiệc cưới chỉ còn anh em họ hàng trong nhà và cả đoàn rước dâu vừa tròn 3 mâm. “Mọi người xúm vào hỏi thăm, chuyện trò, quây quần dưới ánh trăng sáng vằng vặc. Lúc đó, tôi không thấy mệt mỏi mà cảm động vô cùng”, bà Vũ Thị Thảo đỡ lời. Tính đến nay, ngót nửa thế kỷ đã trôi qua, con cháu, dâu rể đủ đầy, mỗi khi nhắc lại chuyện ngày ấy, ánh mắt ông bà vẫn luôn nhìn nhau đầy ấm áp, yêu thương!

Bài và ảnh: KIM ANH