Một ngày cuối hạ trên miền biên cương Tây Bắc, nắng chói chang từ trên cao phả xuống, nóng từ mặt đất hầm hập bốc lên. 15 giờ chiều, sân tập điều lệnh nền lát xi măng của phân đội 5, đơn vị T2 (Quân khu 2) chỉ thấy một màu loang loáng của nắng. Đứng cách khá xa mà tôi vẫn nghe thấy tiếng hô rõ ràng, mạch lạc “Một hai, một hai” của Đại úy Vũ Hoài Thanh cùng với những bước chân rầm rập, rầm rập của các chiến sĩ luyện tập đội ngũ như làm rung chuyển cả núi đồi. Trên thân thể người chiến sĩ, mồ hôi chảy ròng ròng xuống hai gò má, rớt vào bờ vai và thấm đẫm lưng áo.
Sau hơn nửa giờ luyện tập đội ngũ, Thanh cho bộ đội nghỉ giải lao. Thấy Đại đội trưởng Thanh đến một gốc cây bàng có để thùng nước uống, các chiến sĩ tự nhiên không ai bảo ai, cùng rảo chân hướng về chỗ anh. Cầm một bát nước chè ấm nóng, Binh nhì Cầm Văn Si lễ phép nói với Thanh:
- Em mời thủ trưởng ạ!
Tay cầm cuốn sổ phe phẩy vào người cho đỡ nóng, Thanh nhìn Si trìu mến:
- Anh cảm ơn!
Uống xong bát nước chè, Thanh lấy một cái bát khác rồi múc nước, đưa cho Si và niềm nở:
- Anh mời Si uống nước này. Si uống đi cho “mát” cái bụng, “tỉnh” cái đầu để giờ sau luyện tập hăng say nhé!
Hai tay đón lấy bát nước của đại đội trưởng đưa cho, đôi mắt Si lúc đó như ánh lên niềm vui trước sự quan tâm thân mật của anh...
 |
Đại úy Vũ Hoài Thanh hướng dẫn, sửa động tác đội ngũ cho chiến sĩ. |
Mới đó mà tám năm trôi qua, Thanh đã gắn bó với các chiến sĩ dân tộc Mông, Dao, Thái, Hà Nhì, Khơ-mú, La Hủ... ở các tỉnh biên giới Điện Biên, Sơn La, Lai Châu. Sinh ra và lớn lên ở miền xuôi (xã Thái Hòa-Lập Thạch-Vĩnh Phúc), rất ít khi Thanh tiếp xúc với người dân tộc thiểu số. Do vậy những ngày mới về đơn vị công tác, để có cơ sở thuận lợi hơn trong công tác quản lý, giáo dục bộ đội, Thanh đã lên thư viện trung đoàn tìm đọc những cuốn sách nói về phong tục tập quán, về phương pháp vận động tuyên truyền đồng bào các dân tộc ở các tỉnh Tây Bắc. Tuy vậy, thời gian đầu huấn luyện, Trung đội trưởng Thanh đã gặp những trường hợp... dở mếu, dở cười. Có chiến sĩ lần đầu tiên tập đội ngũ mà không biết phía nào là bên phải, bên trái để quay cho đúng tiếng hô của người chỉ huy. Có chiến sĩ chỉ mỗi việc “đổi chân trong khi đi” hay “tay này đánh xuống thì chân kia bước lên” mà tập luyện “bở hơi tai” vẫn còn lẫn lộn. Có chiến sĩ giơ tay lên chào, khi thì năm ngón xòe ra, lúc lại úp cong cả bàn tay xuống.
Qua tiếp xúc và tìm hiểu, Thanh mới biết rằng, từ thời niên thiếu đôi bàn chân to bè quen đi rừng và đôi bàn tay chai sạn của các em quen cầm con dao, cái cuốc nhiều hơn là cầm cái bút, cuốn sách đến trường. Trong khi môi trường quân đội luôn đòi hỏi mọi hành động, việc làm của quân nhân đều phải tuân theo điều lệnh, điều lệ và tác phong chính quy mẫu mực. Những điều đó khác xa với cuộc sống tự do, phóng khoáng của các em trên các bản làng đèo heo hút gió. Vì thế, để giúp các em dần thích ứng với hoạt động quân sự, Thanh vừa ân cần động viên, chỉ bảo một cách tận tình, vừa kiên trì hướng dẫn tỉ mỉ, uốn nắn từng li, từng tí để chiến sĩ làm đúng động tác thực hành, từ đó từng bước hình thành, tạo lập cho các em một thói quen hành động theo điều lệnh.
Trên thực tế, việc rèn luyện, huấn luyện các chiến sĩ dân tộc thiểu số phải kiên nhẫn bao nhiêu, thì việc bám nắm và “làm thông” tư tưởng của các em cũng phải bền bỉ, khéo léo bấy nhiêu. Vì mỗi chiến sĩ đều mang trong mình những dấu ấn đặc trưng dân tộc, vùng quê rất đậm nét. Tuy phần lớn các em đều có đặc điểm chung là hiền lành, chất phác, cần cù, chăm chỉ, song vẫn còn một số chiến sĩ nảy sinh thái độ, tư tưởng cá biệt. Với những trường hợp như thế, Thanh luôn trăn trở, suy nghĩ để biết cách nói “ưng cái bụng, đúng cái tai” bộ đội.
Chiến sĩ Lường Văn Chơn, dân tộc Thái, quê ở huyện Quỳnh Nhai (Sơn La) những ngày mới vào quân ngũ do nhớ nhà nên cứ nằm lì trên giường kêu ốm. Khi Thanh đến hỏi han thì Chơn ngoảnh mặt đi không nói một lời. Đến bữa, Thanh trực tiếp lấy cơm canh về để đầu giường, gọi Chơn dậy ăn thì Chơn nói như giãy nảy: “Cán bộ à, em không ăn cơm với thịt lợn da trắng đâu. Vì em là người dân tộc Thái trắng, nếu ăn thịt lợn này vào sẽ rụng hết cả hàm răng!”. Thế là trong ba ngày, Chơn bỏ ăn tại bếp, tự mua bánh mì, bánh nướng hay mì tôm để ngồi ăn một mình. Một buổi chiều, Thanh xin phép chỉ huy đại đội mang bốn suất cơm về rồi mời hai chiến sĩ dân tộc Thái trắng và Chơn cùng lên phòng ăn cơm với mình. Khi ăn, anh gắp cho hai chiến sĩ kia những miếng thịt lợn vào bát và hỏi: “Hình như dân tộc Thái trắng có quan niệm rằng nếu ăn thịt lợn da trắng thì bị rụng mất răng, đúng không các em?”. Hai chiến sĩ đều khẳng định với Thanh: “Không phải như vậy đâu, ai nói thế là dối cán bộ rồi!”. Có mặt bên mâm cơm cùng với Trung đội trưởng Thanh và hai người đồng hương, đồng tộc, lúc đó Chơn e thẹn và có phần xấu hổ.
Binh nhì Chang Gô Sơn, dân tộc Hà Nhì, quê ở huyện Mường Nhé (Điện Biên) bản tính chất phác và chăm chỉ. Nhưng vào giờ nghỉ, ngày nghỉ, không ít lần Sơn đã tự ý trốn đơn vị ra ngoài uống rượu. Dù uống không say xỉn, nhưng mặt mày Sơn sau khi có rượu vào thì đỏ lựng như gấc chín. Thanh đã gặp gỡ khuyên bảo mấy lần mà Sơn vẫn “chứng nào tật ấy”. Một buổi tối thứ bảy, Thanh chủ động rủ Sơn ra ngoài quán uống nước. Gọi hai ly cà phê, Thanh mời Sơn cùng nhâm nhi. Trong lúc trò chuyện thân mật, Thanh hỏi han về tình hình gia đình, nguyện vọng của Sơn; về phong tục ăn uống của người Hà Nhì rồi khéo léo nói xen vào những tác hại của rượu đối với sức khỏe con người. Hàn huyên đang cởi mở, Thanh nhẹ nhàng hỏi: “Nay mai ra quân, về nhà Sơn lấy vợ rồi may mắn sinh con trai đầu lòng. Sau này con trai Sơn lớn lên khỏe mạnh nhưng không chịu lên rừng phát rẫy làm nương mà hay rủ bạn bè đi uống rượu bê tha. Dù hết lời khuyên bảo mà cháu cũng không nghe, lúc ấy Sơn sẽ làm gì?”. Thấy cán bộ nói hàm ý chỉ khuyết điểm của mình, Sơn chỉ im lặng và lảng ánh mắt nhìn về phía khác. Lát sau, Sơn nói lẩm bẩm trong miệng: “Dạ… em... biết mình có lỗi ạ”.
Trường hợp Binh nhất Giàng Chừ Pó, dân tộc Mông cũng làm anh trăn trở mấy đêm liền. Sau nửa tháng về phép thăm gia đình ở xã Tìa Dình, huyện Điện Biên Đông (Điện Biên), trở lại đơn vị công tác, từ một chiến sĩ hay cười nói, Pó trở nên lầm lì, ít giao tiếp với mọi người xung quanh. Đến tầm hơn 9 giờ tối, trong khi cả trung đội lên giường ngủ nghỉ thì Pó lặng lẽ ra một gốc cây to phía sau nhà thắp sáng nến để đọc sách. Qua theo dõi, Thanh đã phát hiện Pó đọc một tài liệu có nội dung xuyên tạc nhảm nhí của kẻ xấu. Một buổi tối, khi mọi người lên giường, Thanh gọi Pó lên phòng nghỉ của mình rồi nhẹ nhàng góp ý: “Em đọc sách là điều đáng khích lệ. Vì đọc sách sẽ góp phần mở rộng tầm nhìn, nâng cao hiểu biết cho con người. Nhưng việc đọc tài liệu ngoài trời giữa đêm khuya thanh vắng như em vừa trái với chế độ quy định của đơn vị, vừa ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe bản thân. Mà cái cuốn tài liệu em đọc, theo anh được biết thì toàn những điều phi lý thôi. Em cứ nghĩ mà xem, làm gì có chuyện không lên nương trồng ngô mà vẫn có mèn mén ăn, không xuống suối bắt mà vẫn có cá đầy nồi, đúng không nào?”. Thấy anh Thanh đã biết việc làm lén lút của mình, Pó thật thà: “Thời gian nghỉ phép ở nhà, một người đàn ông tự xưng là “con cháu của Giàng” đến cho em ít tiền rồi rỉ tai bảo là cứ đọc thuộc lòng tài liệu này vào một giờ cố định trong ngày thì sau khi xuất ngũ, về nhà không làm cũng có cái ăn. Nhưng nghe anh giảng giải thế, em biết cái đầu mình nghĩ không đúng rồi”.
Với tình cảm và niềm tin chân thành, Thanh luôn nâng niu, khơi dậy từng đức tính tốt, chắt chiu và chăm sóc từng mầm thiện trong nhân cách mỗi chiến sĩ; đồng thời biết giáo dục, cảm hóa và làm chuyển biến những suy nghĩ bồng bột, những thói quen lạc hậu của một số trường hợp cá biệt để dần dần giúp các em có nhận thức và hành động phù hợp với nếp sống văn hóa-chính quy trong quân đội.
Sau khi được đề bạt lên chức đại đội phó quân sự (năm 2005) rồi đại đội trưởng (đầu năm 2008), Thanh vẫn giữ phong cách chỉ huy gần gũi, sâu sát và thương yêu bộ đội như thời làm trung đội trưởng. Anh đã cùng đội ngũ cán bộ trong đại đội chăm lo xây dựng bầu không khí “Đơn vị là nhà, cán bộ-chiến sĩ là anh em” luôn nồng ấm, chan hòa. Đó là một trong những nhân tố quyết định đến sự vững mạnh, trưởng thành của tập thể nên 7 năm liền (2001-2007), đơn vị anh được cấp trên tặng Bằng khen và danh hiệu “Đơn vị quyết thắng”.
Ngồi trò chuyện với tôi trong căn phòng nhỏ gọn, nhưng mọi thứ đồ đạc đều được xếp đặt gọn gàng, ngăn nắp, thỉnh thoảng Thanh liếc mắt ra ngoài sân như canh cánh điều gì. Anh bộc bạch với tôi:
- So với bộ đội xuất thân từ thành thị và miền xuôi, các chiến sĩ dân tộc thiểu số vùng cao biên giới chịu nhiều vất vả, thiệt thòi từ thuở thơ ấu. Hầu hết các em đều xuất thân từ gia đình nghèo, sinh ra và lớn lên ở miền quê nghèo, ít có cơ hội tiếp xúc với cuộc sống văn minh, hiện đại. Do không ít tập tục lạc hậu đã ăn sâu vào tiềm thức các em từ nhỏ nên không thể cứng nhắc dùng điều lệnh, điều lệ trong công tác quản lý, giáo dục hằng ngày, mà phải lựa lời để tác động, thuyết phục, cảm hóa chiến sĩ một cách mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với tính cách, nhận thức của mỗi người mới mang lại hiệu quả.
Từ suy nghĩ ấy, Thanh đã bền bỉ dìu dắt và giúp đỡ các chiến sĩ phấn đấu trưởng thành, tiến bộ. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về quê hương, với những đức tính tốt vốn có của dân tộc mình và phát huy những phẩm chất quý báu được học tập, rèn luyện, tiếp thụ trong môi trường quân ngũ, nhất định các em sẽ có nhiều đóng góp tích cực cho công cuộc phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương. Và trong trái tim mình, các em vẫn mang hình ảnh Vũ Hoài Thanh-người chỉ huy-người anh cả đã hết lòng vun trồng, bồi đắp cho mối quan hệ “tình đồng chí” thân thương quyện chặt vào “nghĩa đồng bào” cao cả.
Bảy năm liên tục (2001- 2007), Đại úy Vũ Hoài Thanh được cán bộ, chiến sĩ đơn vị tin yêu bình bầu là “Chiến sĩ thi đua” từ cấp cơ sở đến cấp quân khu. Năm 2006, anh còn được bình chọn, tôn vinh là 1 trong 10 thanh niên điển hình của LLVT Quân khu 2 và 1 trong 10 thanh niên tiêu biểu của toàn quân. |
Bài và ảnh: Nguyễn Văn Hải