 |
Toà nhà 131 sau vụ đánh bom |
9 giờ 30 phút tối, thứ tư, ngày 25-6-1996, trung sĩ An-phrét-đô Ghê-rê-rô trèo lên mái tòa nhà 131, khu cao ốc Kho-ba - một căn cứ của quân đội Mỹ ở Dha-ran, Ả-rập Xê-út - để kiểm tra vị trí canh gác. Trời đêm lành lạnh, trong lành. Từ trên cao, Ghê-rê-rô nhìn xuống. Anh ta cảm giác có điều gì đó bất thường. 7 tháng trước, một vụ khủng bố bằng bom xảy ra ở Ri-át. 5 người Mỹ bị giết, quân đội Mỹ tại Ả-rập Xê-út được đặt trong tình trạng báo động cao độ.
Tòa nhà 131
Được xây dựng từ thập kỷ 70 của thế kỷ trước, khu cao ốc Kho-ba từng bị bỏ trống nhiều năm vì vua Kha-lít. Theo luật lệ thời đó, khu này quá sang trọng, không phù hợp với dân thường. Sau khi I-rắc xâm chiếm Cô-oét vào tháng 8-1990, khu Kho-ba được mở cửa dành cho những người Cô-oét tị nạn. Chiến tranh vùng Vịnh kết thúc năm 1991, những quân nhân người Anh, Pháp và Mỹ đến đây ở. Người Mỹ tập trung đông nhất vào tháng 6-1996. Nhiệm vụ của họ tại Ả-rập Xê-út là duy trì vùng cấm bay ở phía Nam I-rắc. Theo tạp chí Không quân, hầu hết các phi công Mỹ thuộc đoàn không quân 4404 tại đây đều luân phiên thực hiện nhiệm vụ trong vòng 90 ngày và tạm trú tại tòa nhà 131, thuộc khu Kho-ba, đến khi trở lại căn cứ không quân En-gin ở Phlo-ri-đa.
Từ trên mái tòa nhà 131, trung sĩ Ghê-rê-rô quét ống nhòm ra toàn khu vực. Cách tòa nhà khoảng 25m, chỗ ranh giới của hàng rào và điểm đỗ xe công cộng dành cho những người đi lễ tại một nhà thờ Hồi giáo, dường như có ai đó. Khu vực này có một hàng rào bằng bê-tông cao ngang thắt lưng nhằm ngăn chặn những chiếc xe tải có thể vượt qua. Ghê-rê-rô nghe thấy tiếng cầu nguyện phát ra từ nhà thờ Hồi giáo, sau đó là tiếng khóc.
Trên tầng 4 của tòa nhà 131, trung sĩ Ha-rôn Giau-ta-kít ngồi trên ghế tựa, xem bản tin truyền hình buổi tối. Dưới đại sảnh, phi công Ê-ríc Ca-xto, 22 tuổi, đang đứng gọi điện thoại. Trong khi đó, thiếu tướng Te-ry J.Oết-lơ, chỉ huy đoàn 4404 đang ngồi viết những ghi chú về công việc để lại cho thiếu tướng Đa-ni-en M.Đích, người sẽ thay thế vào hôm sau. Oết-lơ đã hoàn thành một năm công tác.
Cách đó khoảng nửa dặm, tại ngôi làng An Rút-xên số 3, một nơi tạm trú dành cho những người nước ngoài, hai công dân Mỹ Ru-thơ và Tôm Rốt-xơ vừa xong bữa tối, đang dùng đồ tráng miệng. Tôm Rốt-xơ làm việc cho một công ty Ả-rập Xê-út ở Dha-ran.
Cùng thời gian đó, trên mái của tòa nhà 131, trung sĩ Ghê-rê-rô nhìn thấy cái gì đó nhưng anh không thể nhận biết chính xác. Khoảng 21 giờ 45 phút, một chiếc xe hiệu Datsun được lái vào bãi để xe. Chiếc xe nhỏ đó chạy vòng quanh vài vòng rồi bất chợt lóe đèn pha rồi bỏ đi. Tiếp theo, hai chiếc xe tải tiến vào. Đó là một chiếc Chevrolet Caprice màu trắng và một chiếc bồn lớn chuyên hút và vận chuyển nước thải. Chiếc xe bồn đâm về phía hàng rào trước tòa nhà 131.
Ghê-rê-rô và đồng đội phản ứng tức thì. Họ nhấn chuông báo động sơ tán. Một tháng trước đó, cũng từng xảy ra một vụ báo động tại tòa nhà 129, toàn bộ những người tạm trú trong đó phải ra ngoài trong 5 phút.
Kính bay
Từ 21 giờ 50 phút, đêm kinh hoàng bắt đầu với những tiếng đổ vỡ phát ra xa hàng dặm từ khu cao ốc Kho-ba. Sau này, Rút Rốt-xơ kể lại với tờ New York Times: “Có một tiếng nổ lớn khủng khiếp và kính rơi xuống như mưa”.
Ở khu Kho-ba, toàn bộ các cửa kính bị vỡ tan, các mảnh vỡ lao đi với tốc độ của đạn súng ngắn. Một làn sóng kính đẩy tướng Oết-lơ dính vào chiếc bàn ông đang ngồi viết.
Ở tầng 1 tòa nhà 131, cơn xung chấn đã ném chỉ huy Ri-chát D.Đu-prê, đang trong cơn ngủ say, xuống sàn nhà. Ban đầu, Ri-chát tưởng là gió điều hòa quá mạnh. Sau đó, ông dậy kiểm tra và phát hiện 3 cánh cửa phòng bị phá hủy. “Cánh cửa sau bếp bị thổi bay ra cánh cửa trước. Những luồng gió thông thống qua phòng tôi”- sau này Ri-chát trả lời phỏng vấn trên website Air Force Link.
Trên tầng 4, trung sĩ Giau-ta-kít phát hiện một quả cầu lửa từ phía bãi đỗ xe lao về phía mình. Anh đạp tung cửa và lao ra ngoài. Sau này, Giau-ta-kít kể lại với tờ New York Times, chiếc ghế tựa đã cứu mạng anh, nó đã che cho anh thoát khỏi những mảnh kính bay.
Ở dưới sảnh, cơn xung chấn làm đổ sập các bức tường. Phi công Ca-xto, người đang đứng gọi điện thoại, bị cuốn ra hành lang cùng với những mảnh vỡ của gạch vụn.
Toàn bộ khu vực Kho-ba vang lên những tiếng hét thất thanh, tiếng xe cứu hỏa, cứu thương rầm rĩ. Những người cư ngụ ở tòa nhà 131 phải lao ra màn đêm. Tất cả đều ít nhiều bị thương tích. Bức rào bằng bê-tông ở gần vị trí chiếc xe tải chở bom bị vỡ tan ra thành từng mảnh.
Toàn bộ cửa kính trong khu vực Kho-ba đều bị vỡ tan. Có tổng cộng hơn 400 người bị thương, trong đó có 250 người Mỹ.
Bản báo cáo đẫm máu
20 phút sau vụ nổ, toàn bộ những người bị thương đều được đưa vào bệnh viện. Tất cả các giường bệnh đều kín. Các bệnh nhân thậm chí còn phải điều trị ngay tại vỉa hè. Xe cứu thương hối hả đưa những ca nặng tới các bệnh viện tỉnh lân cận.
Đến 3 giờ sáng, con số tử vong mới chính thức được thống kê. Có 16 người chết. Đến lúc mờ sáng, có thêm hai thi thể được tìm thấy trong đống đổ nát bên ngoài tòa nhà 131. Đến giữa buổi sáng, tổng cộng người ta thống kê có 19 nạn nhân bị vùi sâu dưới đống đổ nát.
Khi những màn khói bụi lắng xuống, người ta mới ước tính được, vụ nổ có sức công phá tương đương 9-13 tấn thuốc nổ TNT, mạnh hơn nhiều so với vụ đánh bom phá sập tòa nhà Mu-ra Phê-đe-ran ở thành phố Ô-kla-hô-ma năm 1995. Những báo cáo về tấn bi kịch nhanh chóng được truyền đi khắp thế giới. Người Mỹ bị choáng váng và lo sợ. Tại Oa-sinh-tơn, Tổng thống Bin Clin-tơn tuyên bố: “Chúng tôi sẽ tìm ra thủ phạm. Không thể có chuyện những kẻ gây ra vụ nổ đó lại không bị trừng phạt”.
Những dấu hiệu báo trước
Ngày 13-11-1995, 7 tháng trước khi khu cao ốc Kho-ba bị đánh bom, một chiếc xe chở bom đã phát nổ tại Trung tâm an ninh quốc gia ở Ri-át, giết chết 7 người, trong đó có 5 người Mỹ. Vụ nổ tương đương 100kg thuốc nổ TNT đã chứng tỏ, Ả-rập Xê-út không còn là vùng đất an toàn.
Tiếp đó, một loạt các vụ khủng bố bằng bom đã nổ ra ở Ba-ranh. Suốt từ tháng 12-1995 đến tháng 3-1996, bom nổ tại khắp các bưu điện, khách sạn, nhà hàng và cửa hàng. Tại một nhà hàng bị tấn công, 7 người đã bị giết. Tuy nhiên, không có người Mỹ nào bị thương tích. Các chỉ huy quân đội Mỹ tại Ba-ranh cho rằng, đó là dấu hiệu chứng tỏ tình trạng bạo lực gia tăng tại các quốc gia Hồi giáo. Tướng Oết-lơ trả lời phỏng vấn trên tạp chí Không quân: “Tôi thực sự lo ngại, các vụ khủng bố đã bắt đầu nhằm vào những địa điểm người Mỹ hay lui tới”.
Trước vụ đánh bom tại Ri-át, lực lượng không quân đã phối hợp với CIA tiến hành rà soát lại mức độ an toàn tại những nơi người Mỹ sinh sống ở Ả-rập Xê-út. Ngày 21-12-1995, một bản báo cáo về khu cao ốc Kho-ba đã chỉ ra tới 39 nguy cơ có thể xảy ra khủng bố. Một sĩ quan không quân chịu trách nhiệm về an ninh tại căn cứ này nhận định, vùng “trắng” có chu vi 120m không bảo đảm an toàn cho khu cao ốc trong trường hợp những xe bom như ở Ri-át.
“Đó là một công trình văn hóa”
Đại tá không quân Ga-ry Bôi-lơ là người đã thực hiện ý tưởng chuyển đổi khu cao ốc Kho-ba thành một căn cứ an ninh. Tuy nhiên, việc ấy không đơn giản. Theo tạp chí Không quân, chính phủ Mỹ và Ả-rập Xê-út chưa bao giờ ký một hiệp định thành lập căn cứ quân sự nào mà lại hỏi ý kiến các quan chức địa phương. Vì thế, đại tá Bôi-lơ đã cho rằng, có những mối liên hệ giữa sự bất mãn của quan chức địa phương với vụ đánh bom.
Đại tá Bôi-lơ nói với tờ New York Times rằng, ông ta đã mời các đối tác người Ả-rập tới đi bộ tại khu vực “vùng trắng” vài ngày sau vụ nổ bom ở Ri-át và đề nghị được mở rộng vùng này ra ngoài chu vi 120m. 4 tháng sau, vẫn chưa có câu trả lời. Khi đại tá Bôi-lơ tới trụ sở chính quyền địa phương để nhắc lại đề nghị, một quan chức trả lời: “Không phải bây giờ”.
“Họ không bao giờ nói không”, một sĩ quan không quân nhiều kinh nghiệm ứng xử với người Ả-rập trả lời tờ New York Times, “Họ nói, họ sẽ nghiên cứu. Đó là một công trình văn hóa. Bạn không thể hiểu được nền văn hóa của họ. Và, chúng tôi đang ở trên mảnh đất của họ”.
Chính quyền địa phương cũng từ chối đề nghị của phía Mỹ về việc tỉa bớt cây cối và phát quang các bụi rậm xung quanh khu vực an toàn. Nguyên nhân, tín ngưỡng đạo Hồi không cho phép phụ nữ mặc váy ngắn, quần soóc và bikini. Và những quan chức Ả-rập muốn những phụ nữ trong khu căn cứ bị che khuất khỏi tầm mắt của người dân địa phương. Thậm chí, nhiều nhà hàng địa phương luôn từ chối phục vụ những phụ nữ Mỹ, kể cả khi họ mặc trang phục kín đáo.
Tướng Oết-lơ cho rằng, các tin tức về hoạt động tình báo ở Ả-rập Xê-út có nhiều khiếm khuyết. Tuy nhiên, lực lượng không quân lại nhận được từ CIA đánh giá các phần tử khủng bố ở Ả-rập Xê-út không thể chế tạo những quả bom lớn hơn quả bom 100kg đã phát nổ ở Ri-át. Hơn nữa, lực lượng không quân ở Kho-ba cũng không e ngại khả năng tàn phá của một quả bom cỡ đó.
Tuy nhiên, mức độ cảnh báo an ninh ở Kho-ba vẫn được tăng cường. Một lần, một người lính gác, bằng ống nhòm, đã phát hiện một người đàn ông cũng sử dụng ống nhòm theo dõi khu Kho-ba.
Xe bom
Sau vụ nổ bom ở Ri-át, các điều tra viên người Mỹ yêu cầu chính phủ Ả-rập Xê-út cho thẩm tra 4 người đàn ông đã thú nhận là thủ phạm. Họ hy vọng sẽ lần ra tổ chức đứng sau vụ khủng bố. Tuy nhiên, chính phủ nước này từ chối và đã tử hình các thủ phạm vào ngày 31-5-1996. Vì thế, những đầu mối liên quan tới vụ đánh bom khu Kho-ba đã không được phát hiện. Cuối cùng, một đội nhân viên của FBI đã được điều tới Dha-ran để điều tra những kẻ tình nghi và những hành động liên quan tới các vụ nổ bom.
Theo một bản cáo trạng của bồi thẩm đoàn A-lếch-xan-đri-a, bang Vơ-gin-ni-a, vào tháng 6-2001, những kẻ đánh bom ở Ả-rập Xê-út gồm 13 thành viên thuộc Saudi Hizballah (tên gọi khác là “Đảng của Chúa”), một tổ chức Hồi giáo cực đoan ở Ả-rập. Lãnh đạo của nhóm này từng là một thủ lĩnh của đội quân Saudi Hizballah - A-mát An-Mu-gha-sin.
Năm 1993, 3 năm trước vụ nổ bom ở Kho-ba, An-Mu-gha-sin đã nhận lệnh của A-đen Ka-rim An-Nát-xơ, thủ lĩnh tối cao của Hizballah, theo dõi những người Mỹ ở Ả-rập Xê-út.
Năm 1994, hai bộ hạ của An-Mu-gha-sin đã xác định khu cao ốc Kho-ba là mục tiêu thích hợp và đề nghị lên thủ lĩnh của chúng. An-Mu-gha-sin đã cho hai gã này 2.000USD với nhiệm vụ tiếp tục theo dõi mục tiêu. Tháng 6-1995, chúng đã nắm được quy luật hoạt động ở khu cao ốc Kho-ba. An-Mu-gha-sin đi đến quyết định tấn công Kho-ba với hy vọng một vụ nổ lớn sẽ khiến người Mỹ phải rời xa vùng Vịnh.
Tháng 2-1996, một thành viên của Hizballah lái một chiếc xe thùng chứa đầy chất nổ từ Bê-rút, Li-băng, tới một tỉnh phía đông của Ả-rập Xê-út để chuẩn bị cho vụ tấn công. Vào tháng 3, lực lượng tuần tra biên giới của Saudi đã bắt giữ chiếc xe thùng chở thuốc nổ thứ hai đến từ Bê-rút. Tháng 4, ba thành viên khác của Hizballah tiếp tục bị bắt.
An-Mu-gha-sin lập tức tìm được người thay thế những thành viên bị bắt và nhóm này tiếp tục tập kết thuốc nổ về các kho xung quanh Kho-ba. Tháng 6, chúng mua được một chiếc xe thùng chuyên để chở nước thải để cải tiến thành xe bom. Hai tuần sau, chiếc xe bom phát nổ.
Bin La-đen từng gửi “thông điệp”
Theo kết quả điều tra, tối 25-6-1996, An-Mu-gha-sin và một số thành viên Hizballah đã quyết định tấn công Kho-ba. An-Mu-gha-sin đích thân lái chiếc xe bồn cùng Ali Al-Houri tới bãi đậu xe phía gần tòa nhà 131. Ha-ni An-Xay-ép và Áp-đan-la An-Gia-rát lái chiếc Datsun. Hút-xên An-Mu-ghít lái chiếc Chevrolet màu trắng.
Sau vụ đánh bom, những kẻ khủng bố sống sót hy vọng trốn thoát khỏi Ả-rập Xê-út. Tuy nhiên, lực lượng an ninh của nước này đã bắt giữ được 6 tên. Mùa đông năm 1997, thêm An-Xay-ép bị bắt ở Ca-na-đa. Hắn đã yêu cầu gặp những điều tra viên người Mỹ và phủ nhận sự liên quan tới vụ đánh bom Kho-ba. Hắn tìm cách đánh lạc hướng điều tra bằng cách kể về sự rạn nứt trong các mối quan hệ tổ chức Hizballah. Hắn cũng hứa hẹn hợp tác với các điều tra viên và bày tỏ mong muốn được xử tại Mỹ, nơi hắn hy vọng có thể tìm thấy sự ủng hộ của các chính trị gia. Những lời khai của An-Xay-ép đã cản trở đáng kể tới quá trình điều tra.
Những kẻ khác bị cáo buộc liên quan tới vụ đánh bom Kho-ba gồm: An-Mu-gha-sin, An-Nát-xê, An-Hô-ri, An-Xay-ép, An-Gia-rát, An-Mu-ghít, I-bra-him An-Y-a-cốp, Mút-ta-pha An-Qua-sáp, Xa-ép An-Ba-ha, A-li An-Ma-huôn, Sa-lê Ra-ma-đan, Mút-ta-pha An-Mu-a-lem, Pha-đen An-A-la-uê và Giôn Đô-ê - một người Li-băng chưa rõ gốc tích. An-Mu-gha-sin, An-Nát-xê, An-Hô-ri và An-Y-a-cốp những kẻ nằm trong danh sách truy nã của FBI.
Theo điều tra của tờ New York Times, thủ lĩnh của Al-Qaeda Ô-xa-ma Bin La-đen có vai trò nhất định trong tấn thảm kịch Kho-ba. Năm 1997, Bin La-đen từng trả lời phỏng vấn một tờ báo tiếng Ả-rập: “Chúng tôi đã nghĩ rằng, những vụ nổ ở Ri-át và Kho-ba là tín hiệu đủ để những người ra quyết định ở Mỹ nhạy cảm ngăn chặn trước một trận chiến thực sự giữa các lực lượng Hồi giáo và quân đội Mỹ, nhưng có vẻ như họ không hiểu tín hiệu đó”. n
HUY ĐĂNG
(Theo New York Times)