QĐND - Mùa hè năm nay, tôi được cùng đoàn nhà văn đi thâm nhập thực tế tại quần đảo Trường Sa và nhà giàn DK1, trên con tàu HQ-996 của hải quân. Đoàn có 10 hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam. Người nhiều tuổi nhất là nhà văn Lê Hoài Nam, từng là lính hải quân. Trẻ nhất là dịch giả Nguyễn Vũ Hưng thuộc thế hệ “8X đời chót”, cũng là hội viên trẻ nhất của hội hiện nay.
Ngoài món quà chung tặng cho lính đảo ở Trường Sa là những thùng sách, mỗi nhà văn nhà thơ tùy theo tài năng và sự nhạy bén của mình đã thể hiện tấm lòng với biển, đảo theo một cách riêng. Nhà thơ Nguyễn Thị Mai từ buổi đầu ra biển đã tình nguyện làm phụ bếp cho các anh lính thủy thủ trên tàu như một người chị ân cần. Nhà thơ Bàng Ái Thơ khi lên đảo thì gần gũi như người mẹ với các chú tân binh. Còn Phạm Thị Vân Anh, buổi sáng đặt chân lên đảo Song Tử Tây, thấy nhà thơ trẻ xách theo một gói gì đó được bọc rất kỹ. Khi biết Vân Anh đã bỏ tiền túi hơn hai triệu đồng để mua 400 gói hạt rau để chia 50 gói cho mỗi đảo nổi, 20 gói cho mỗi đảo chìm, tôi nhìn nữ nhà thơ biên phòng với con mắt nể phục. Đúng là phụ nữ, dù là nhà thơ hay nhà gì vẫn cứ là phụ nữ, lúc nào họ cũng chu đáo, thiết thực…
Dường như trong suốt chuyến đi có một không khí gì đó, tạm gọi là không khí Trường Sa, đã tạo nguồn cảm hứng cho các văn nghệ sĩ trên tàu sáng tác “dữ dội” hơn nhiều so với ngày ở đất liền. Bên ngoài, biển xanh biếc đến mê hồn, gió lạnh như băng lồng lộng thổi, nhưng trong các phòng trên tàu thì nóng, dường như chính sự đối lập và ngột ngạt ấy lại làm bùng phát ý tưởng và khiến các nhà văn tập trung cao độ vào công việc hơn. Dù rất bận rộn trong vai trò của một trưởng đoàn quản lý “đám nhà văn lắm cá tính phức tạp”, nhà văn Võ Thị Xuân Hà vẫn tranh thủ viết với một nghị lực phi thường. Nửa đêm về sáng, khi mọi căn phòng đã tắt điện từ lâu, chỉ còn tiếng rẽ sóng của con tàu đơn độc lao đi trên đại dương tối đen, phòng của chị vẫn sáng đèn. Chị cặm cụi viết, và mỗi ngày theo lịch trình, tới đâu chị cũng gửi tin đều đặn về đất liền qua facebook mà chị gọi đùa là “rắc lông ngỗng”. Nhà thơ Hữu Việt, râu ria cả tuần không cạo nom đường bệ như một vị bá tước châu Âu, thì dù nóng đến đâu cũng ngồi yên không chịu rời chiếc máy vi tính. Anh cần mẫn gõ máy, cho ra đời những bài thơ “nóng hôi hổi vừa thổi vừa đọc”, trong khi nhà thơ trẻ Nguyễn Quang Hưng lặng lẽ viết, sửa chi chít vào cuốn sổ tay. Riêng nhà thơ Đặng Huy Giang tỏ ra đủng đỉnh, nhàn nhã, chỉ cởi trần nằm phơi chiếc bụng Di Lặc trên giường. “Bố này chả chịu làm gì” – tôi thắc mắc. Nhưng hóa ra không phải. Anh đang làm thơ trong lúc lim dim ngủ. Bằng chứng là đến cuối đợt công tác, riêng thơ về biển, đảo, Đặng Huy Giang đã có cả chục bài.
 |
Các nhà văn chụp ảnh kỷ niệm ở đảo Song Tử Tây. Ảnh: DUY NGHĨA
|
Một điều thú vị là giữa đoàn của Hội Nhà văn Việt Nam và đoàn của Hội Nhạc sĩ Việt Nam có sự phối hợp rất nhịp nhàng. Bài thơ nào vừa viết ra liền được phổ nhạc ngay lập tức, cho phát trên loa sau mỗi bản tin hằng ngày để phục vụ kịp thời công chúng trên tàu. Ở cùng với chúng tôi có nhạc sĩ Xuân Thủy-một người hiền lành, cẩn thận-đã nhiệt tình phổ nhạc giúp các anh em nhà thơ trong phòng. Nhờ có “dây chuyền công nghệ khép kín” này, hàng loạt bài thơ-ca khúc đã náo nức gọi nhau ra đời. Bài thơ Thư Song Tử Tây của Hữu Việt lại được Vũ Thiết, một nhạc sĩ rất vui tính ở phòng bên thổi thêm hồn vía, khi ca sĩ hát lên trong đêm tổng kết đã khiến cả tàu mê đắm trước vẻ đẹp của giai điệu và ca từ. Thú thực, thoạt đầu tôi rất nghi ngờ chất lượng của những tác phẩm sinh nở có phần gấp gáp trong hoàn cảnh “dã chiến” này, nhưng khi nghe qua phát thanh, tôi biết mình đã nhầm lớn. Rất hay, rất xúc động. Ngẫm ra cũng không phải điều lạ, bởi trong lịch sử văn nghệ nước ta, không ít tác phẩm xuất sắc đã được khai sinh trong không khí “mặt trận”, thậm chí “đặt hàng”!
Tác phẩm kịch Những người con bất tử của mẹ Tổ quốc của đoàn nhà văn cũng là một sự vụt sáng bất ngờ như thế. Đó là tiết mục trình diễn trong đêm giao lưu văn nghệ tổng kết chuyến công tác, được tổ chức trên boong khi tàu về tới cửa sông Sài Gòn. Đêm ấy, 12 đoàn đại biểu đã tham gia chuyến đi đều có tiết mục đóng góp. Tiểu phẩm kịch của đoàn nhà văn được phác dựng dựa trên truyện ngắn Những lá thư gửi từ biển của nhà văn Võ Thị Xuân Hà và thơ của các nhà thơ trong đoàn, do gấp vội nên không có thời gian để tập dượt nhiều. Bảy nhà văn, nhà thơ lên trình diễn đã thác lời các liệt sĩ hy sinh trong sự kiện đảo Gạc Ma ngày 14-3-1988, với hình ảnh thật lung linh kỳ diệu: Khi gửi thân mình dưới biển sâu, các linh hồn liệt sĩ đã neo tựa vào những nhành san hô trắng muốt. Nhành san hô thấm máu anh hùng, đã nhuộm một màu đỏ thắm, như màu cờ của chúng ta. Cả một đội quân mấy chục con người đang làm thành một hàng rào đỏ màu cờ, trấn giữ nơi đây… Kết thúc màn trình diễn, khi nhà thơ Hữu Việt thủ vai liệt sĩ đứng bật dậy hất tấm áo choàng thét lớn: Mẹ ơi!, tất cả người xem trên boong tàu lặng đi…
Cả con tàu chìm trong im lặng. Tiếng gọi ngân dài trên dòng sông Sài Gòn. Qua ánh điện trên boong, tôi nhìn thấy những giọt nước mắt. Tiết mục đã thành công ngoài mong ước. Các anh chị không chỉ là người cầm bút, mà còn là những nghệ sĩ sân khấu tài hoa! Nhưng điều đã làm rung động mọi trái tim, có lẽ là cảm xúc tuyệt đối chân thành của mỗi người khi diễn. Phạm Thị Vân Anh đã khóc trên sân khấu, cũng như ngày hôm trước, cô đã khóc khi đọc thơ qua máy bộ đàm gửi tới các chiến sĩ trên nhà giàn Phúc Tần.
Mấy ngày trước đó, đoàn đã làm lễ tưởng niệm liệt sĩ khi đi qua vùng đảo Cô Lin - Gạc Ma. Khi vòng hoa được thả xuống biển, có một cánh chim hải âu bay tới kêu lên thảng thốt. Tất cả những người có mặt trên boong tàu hôm ấy không khỏi gợn lên một ý nghĩ, khi suốt cuộc hành trình trên biển không hề xuất hiện một cánh chim nào. Là người nhiều năm tìm hiểu về một thế giới khác, tôi tin vào sự hiển linh.
… Con không về lại mái nhà
Con ở lại vòm xanh hóa mưa gọi cây mọc
Con vẫn còn trong ánh mắt người ra khơi
Lưng dựa lưng bấm chân trên đảo thép
Nhớ con xin mẹ ôm những bờ vai gân guốc
Để thấy con trong mắt sóng mở không ngừng…
Lời của liệt sĩ nói với người mẹ ở quê nhà, hóa thân vào Mẹ Tổ quốc, qua những vần thơ của nhà thơ trẻ Nguyễn Quang Hưng cất lên trong đêm trình diễn của đoàn, đã khẳng định sự bất tử của các anh trong cuộc sống hiện tại. Đó cũng là nén tâm nhang của các nhà văn trước vong linh các anh hùng đã hy sinh vì Trường Sa, là tấm lòng văn nghệ sĩ cả nước với biển, đảo!
Nhà văn PHẠM DUY NGHĨA