QĐND - Tôi cùng với nhà văn Lưu Quốc Hòa về xã Hòa Hậu. Đến thôn Đại Hoàng, nhà văn dừng xe bảo tôi: “Đây là làng của nhà văn, liệt sĩ Nam Cao, chúng ta sẽ chứng kiến nhiều điều thú vị, nhưng trước tiên về đất Nam Cao, hãy chứng kiến một nhà văn đương đại thế hệ sau”.

Vừa nói xong, một người dong dỏng cao, cụt cả hai tay tiến lại và hai ông ôm hôn nhau. Tôi đang ngỡ ngàng thì nhà văn Lưu Quốc Hòa hóm hỉnh giới thiệu: “Đây là nhà văn Từ Thiết Linh, tên thật là Trần Đức Mô, cháu họ với Nam Cao. Bác ấy không có bàn tay nào mà chấp bọn tôi hai tay đấy. Vừa qua, bác ấy “ẵm” gọn giải nhất cuộc thi “Viết về đề tài công nhân” cũng bằng đôi tay cụt này. Ngoài văn chương, bác ta là ông lực điền có hạng, ông lang thuốc khắp vùng biết tiếng”.

Lưu Quốc Hòa và Trần Đức Mô là bạn thân, cùng ở bộ môn văn xuôi, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Hà Nam.

Bản lĩnh một con người

Ông Trần Đức Mô sinh năm 1945 tại làng Đại Hoàng, xã Nhân Hậu, huyện Lý Nhân-cùng quê nhà văn, liệt sĩ Nam Cao, nơi có những đặc sản nổi tiếng như chuối Ngự, hồng không hạt và thiên tình sử Chí Phèo-Thị Nở. Chàng trai Trần Đức Mô đã từng cùng bạn bè lên đường chống Mỹ. Chiến tranh ác liệt không thể đánh gục được người trai vùng chiêm trũng. Thế nhưng, cuộc đời lắm nỗi éo le, khi giữa thời bình, vào một ngày tháng tư định mệnh năm 1985, trong lúc đang làm việc, dòng điện cao thế đã cướp mất đôi bàn tay của ông, người trụ cột gia đình. Năm đó, ông là công nhân xây dựng của Công ty Công nghệ phẩm Hà Nam Ninh.

Giữa bữa cơm trưa cùng gia đình, ông buông hai bàn tay cụt ra khỏi hai chiếc thìa và dĩa được thiết kế riêng cho ông, ngậm ngùi kể về bước ngoặt lớn nhất của đời mình: “Ngày bị nạn, tôi bi quan lắm, nhưng nhìn vợ, nhìn con lại gượng sức mà tiếp tục sống”. Minh chứng cho điều đó là bài thơ “Sống cho các con”, ông làm sau khi gặp tai nạn phải cắt cụt hai tay:

Sống để dạy bảo các con

Để mà quy tụ trông nom gia đình

Chăm cho con lớn con xinh

Để đời đỡ phải bất bình đắng cay.

Và rồi ông cũng vượt qua được khó khăn hoạn nạn nhờ tình yêu thương hết mực của vợ con, sự quan tâm giúp đỡ của bạn bè thân hữu dành cho ông và hơn hết, đó là nhờ vào lòng quyết tâm của chính ông.

Thỉnh thoảng, ông dừng lại châm thuốc lào hút. Nhìn cách ông tự mình dùng tay vê thuốc cho vào nõ điếu và dùng chân kẹp bật lửa để châm đóm cũng thành thạo và thoăn thoắt như bao người bình thường khác. Bà Trần Thị Nguyệt-người vợ đã chăm sóc ông bao nhiêu năm qua, tâm sự: “Những ngày đầu, ông đòi tự mình làm các việc sinh hoạt hằng ngày rất khó khăn và đau đớn do chưa quen; cầm đến cái gì cũng rơi, cũng đổ; đưa thức ăn lên miệng thì rơi vãi ra ngoài hết, cầm chén nước chưa kịp uống thì chén rơi... Tôi và con thương quá, có ý muốn ông đừng vất vả nữa để chúng tôi phụ giúp thì ông không đồng ý. Bởi suy nghĩ sợ mọi người xem mình là một phế nhân khiến ông quyết tâm cố gắng hơn. Ông có thể tự mình làm mọi việc tuy có phần khó khăn hơn như quét nhà, đi vệ sinh, tự mặc áo”.

Bản lĩnh của một cây bút

Bên tiếng thoi rộn rã của làng xóm vọng sang, nhà văn trải lòng: “Những khó khăn trong cuộc đời là những thử thách dành cho con người và con người phải biết vượt qua những thử thách đó”. Ông như đang nói về cuộc đời mình, về những khó khăn mà ông và gia đình đã vượt qua, tỏa rạng phẩm chất của một người lính Cụ Hồ: “Tàn nhưng không phế”. Ông đã rèn luyện cho đôi tay của mình không chỉ để phục vụ cho bản thân mà còn cầm được bút, viết nên những trang truyện ngắn, những vần thơ về cuộc đời thế sự.

Ông vốn là một người yêu thích và có khiếu văn chương, cộng với tâm hồn đa cảm trước thiên nhiên quê hương, lấy đó làm cảm hứng sáng tạo. Chính văn chương đã vực ông dậy từ số phận nghiệt ngã. Và kết quả của sự phấn đấu phi thường đó là những đứa con tinh thần của ông được mọi người đón đọc và công nhận. Tập truyện ngắn “Bến lỡ” đoạt giải khuyến khích do Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam trao tặng năm 2000. Truyện ký “Tôi là công nhân” đoạt giải nhất văn xuôi cuộc thi sáng tác văn học về đề tài công nhân do Liên đoàn Lao động và Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam tổ chức năm 1999- 2000. Nhà văn Lưu Quốc Hòa cho biết: “Cuộc thi năm đó có nhiều tác phẩm dự thi, nhưng giải nhất đã thuộc về bản lĩnh của một cây bút tật nguyền”.

Năm vừa qua, ông cũng cho xuất bản tập thơ “Hương đất”. Tập thơ này ông viết về thiên nhiên, về quê hương và cuộc sống diễn ra xung quanh ông. Ông nhìn đời bằng tâm hồn, bằng niềm tin, bằng sự lạc quan và tin tưởng, nét nổi bật trong thơ ông là sự bình dị, như chính con người của ông vậy - “Một lão nông tri điền đam mê văn chương”. Giờ đây, nhà văn Từ Thiết Linh là hội viên tích cực của Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Hà Nam. Ông là một tấm gương về nghị lực và niềm tin chiến thắng số phận.

Nguyễn Thị Quỳnh