Xuôi đường số 7, ngược dòng sông Giăng, một chiều mùa thu, tôi đến xã Môn Sơn thuộc huyện miền núi Con Cuông, tỉnh Nghệ An với nhiều cảm xúc: Miền đất hoang vắng khỉ ho cò gáy này vốn thuộc phủ Trà Lân đã đi vào Đại cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi “miền Trà Lân trúc chẻ tro bay” năm nào…
Đây là miền đất lịch sử oai hùng, thuộc phủ Trà Lân, một trong 8 phủ của xứ Nghệ An. Theo Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên, thế kỷ 13, huyện Con Cuông có tên là Nam Nhung, Kiềm Châu, sau đó đổi là Mật Châu. Năm 1406, nhà Minh xâm chiếm và đổi nước ta thành quận Giao Chỉ và cũng đổi Mật Châu thành Trà Long, rồi Trà Thanh. Thời Hậu Lê, vùng này gọi là Trà Lân, thủ phủ của khu vực tây bắc xứ Nghệ, là nơi diễn ra trận chiến Trà Lân vang dội trong khởi nghĩa Lam Sơn và được người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi ghi danh xứ núi rừng hoang vắng này vào áng thiên cổ hùng văn Đại cáo Bình Ngô: “Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật/ Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”. Xa xôi, gian khổ, đói nghèo nhưng Môn Sơn lại là nơi ra đời chi bộ đảng đầu tiên của đồng bào các dân tộc thiểu số cả nước nói chung, Nghệ An nói riêng đầu năm 1931, Xứ ủy cử đồng chí Lê Xuân Đào đến Môn Sơn gây dựng cơ sở Đảng. Tháng 4 năm 1931, chi bộ đảng Môn Sơn được thành lập gồm có 5 đảng viên, do ông Vi Văn Khang, một người dân tộc thiểu số làm bí thư.
 |
| Người dân kiếm sống nhờ thu gom tre nứa trên dòng sông Giăng |
Bên cánh đồng Mường Quạ, nổi tiếng cơm ngon đã đi vào câu thành ngữ “cơm Mường Quạ, cá sông Giăng”, tôi được nghe một cụ già tiết lộ thông tin thú vị: Cách đây chưa xa, vẫn còn “vật chứng” lưu tồn từ thời diễn ra trận Trà Lân hùng tráng. Đó là cây đa nghìn năm tuổi từng tồn tại giữa cánh đồng. Tôi kinh ngạc hỏi: “Vậy cây đa ấy nay ở đâu?”. Cụ già buồn bã lắc đầu: “Nó đã bị cơn đại hồng thủy năm 2002 làm bật gốc, cuốn trôi”…
Thì ra, Môn Sơn đã xiết bao biến cải do dòng sông Giăng hung dữ. Mấy cơn đại hồng thủy đã qua. Cơn đại hồng thủy xảy ra vào thập niên bảy mươi của thế kỷ trước khiến người ta phải di dời cả một thị trấn. Còn trận đại hồng thủy năm 2002, tưởng như một lần nữa, cả hai xã Môn Sơn, Lục Giạ bị cuốn trôi, hàng nghìn người dân tộc Đan Lai tan tác khi mà cây đa nghìn năm tuổi cũng bật gốc.
Nhưng điều đó không xảy ra, chính nhờ bàn tay người lính.
Cụ Vi Văn Nùng, một người dân sống bên đập Phà Lài chính là người đã tham gia xây dựng con đập ngày ấy bồi hồi nhớ lại chuyện kỳ diệu lúc bấy giờ. Những năm 1990 của thế kỷ trước, vùng Môn Sơn có hơn 7.000 dân sinh sống, thuộc 3 dân tộc: Thái, Đan Lai và dân tộc Kinh, phân bố ở 12 bản và có hơn 2.000 người dân tộc thiểu số Đan Lai “cắm rễ” trong lõi rừng quốc gia Pù Mát, tại những bản biên giới thuộc diện "5 không" (không điện, không đường, không chợ, không trạm y tế và không cả thông tin liên lạc). Để vào bản Đan Lai, chỉ có cách đi bộ, vượt qua 37 con suối. Cuộc sống cơ cực, thiếu đường đi, thiếu nước uống và canh tác, hàng nghìn người Đan Lai đã có ý định bỏ Môn Sơn lên Tây Nguyên sinh sống. Nhà nước đã phải gấp rút triển khai dự án "khẩn cấp bảo tồn và phát triển bền vững" cho người Đan Lai… Một trong những điểm nhấn của chương trình này là việc xây dựng một đập thủy lợi trên dòng sông Giăng có tiếng là hung dữ, với hàng trăm ghềnh đá mọc lên giữa dòng, tạo nên sức chảy mạnh và mãnh liệt. Dòng sông này đã từng cướp đi rất nhiều mạng người. Chủ đầu tư thực hiện dự án là Bộ đội Biên phòng tỉnh Nghệ An.
Ý tưởng kiến tạo một đập thủy lợi thuộc dạng đập dâng, vắt ngang dòng sông Giăng nhằm lấy nước tưới tiêu cho 560 héc-ta lúa của hai xã Môn Sơn, Lục Giạ, giúp đưa người Đan Lai về sinh sống phía hạ lưu đập, giúp họ thoát khỏi tình trạng du canh du cư, săn bắn hái lượm trước nguy cơ suy vong ngày ấy có ý nghĩa vô cùng to lớn. Ý tưởng rất hay, rất tốt như vậy nhưng thực hiện nó không hề dễ dàng. Đã có hai đơn vị dân sự đảm nhiệm thi công nhưng đều thất bại, bỏ cuộc. Mưa, lũ đã cuốn bay cả công trình, làm thiệt hại nhiều tỷ đồng. Có người đã phải chịu trách nhiệm, phải đi tù vì công trình này. Lý do rất đơn giản: Địa tầng, địa chất quá phức tạp, điều kiện thi công quá khó khăn trong khi vốn đầu tư lại quá hạn chế so với yêu cầu thực tế! Mùa mưa lũ, hàng trăm mét khối gỗ theo dòng lũ cuốn lao thẳng vào mặt đập, rất dễ khiến nó bị vỡ… Phải đến khi những người lính vào cuộc mới chế ngự được dòng sông, con đập mới dần mọc lên. Khi xảy ra “đại hồng thủy” năm 2002, cả cánh đồng Môn Sơn, Lục Giạ trắng băng, đỏ ngầu nước cuồn cuộn, nước hung dữ nhấn chìm con đập. Bộ đội đã phải leo lên đồi cao cầu trời cho đập đừng vỡ. Và cuối cùng, con đập đã vững chãi trong lũ dữ.
 |
|
Những chú bé kiên trì dầm nước câu cá trên đập Phà Lài
|
Trong nắng mới, con đập sừng sững hiện ra khoác trên mình nó màu bùn đất đỏ tươi, vắt ngang dòng sông. Bên này đập, dòng nước bị chặn lại dưới thân đập như vẫn còn lồng lộn tựa con ngựa bất kham muốn quậy phá nhưng rồi đành dừng lại, buông xuôi phía sau là dòng nước êm ả xuôi qua mặt đập chảy về phía hạ lưu. Cả hai bên đầu đập cũng không hề mẻ sứt.
Gần một thập kỷ đã trôi qua. Con đập vẫn vững chãi, chỉ lún có 2cm trong khi thiết kế cho phép lún tới 20cm. Chiết tự tiếng Thái: Phà có nghĩa là trời, Lài là hoa, đập Phà Lài thật sự là bông “hoa của trời” khi trở thành công trình thủy lợi lớn nhất sông Giăng, trở thành cứu cánh làm đổi thay cuộc sống trên dòng sông Giăng và góp phần thắp sáng vùng biên giới phía Tây Nghệ An còn bộn bề gian khó. Từ khi có đập Phà Lài, con sông Giăng hung dữ mới được chỉnh trị, thuần hóa, người dân có thể đi lại bằng đường sông và cuộc sống bớt khó khăn.
Dẫu cái đói cái nghèo đã bớt nhiều song vẫn còn quanh quẩn. Cuối chiều thu, những giọt nắng cuối ngày đã rớt xuống chân đập, vẫn thấy những chú bé người dân tộc kiên trì “cắm rễ” trong dòng nước lạnh giá để câu cá bán cho những nhà hàng đặc sản trên thị trấn. Và kia nữa, những thiếu phụ còng lưng vác nứa lên bến, những thanh niên chống sào ngược dòng tìm gỗ, chặt cây. Sông Giăng nơi miền Trà Lân vẫn nhớ ký ức huy hoàng, vẫn đợi chờ thêm những đổi thay…
Ghi chép của HỒNG QUANG