Theo lịch sử để lại, vùng đất Thăng Long trước đó có tên gọi là thành Đại La, trước nữa có tên gọi là Long Đỗ (năm 866), Tống Bình (năm 618-907). Thăng Long, Đông Đô và Hà Nội là những tên gọi thân quen của mỗi thời kì gắn liền với những chiến thắng lịch sử chói lọi của dân tộc...

Từ Đại La đổi tên thành Thăng Long

Năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi vua và quyết định dời đô từ kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La. Lý Công Uẩn đi thuyền đến Đại La, thuyền đỗ ở dưới thành thấy có rồng vàng hiện lên thuyền ngự, nhân đó đổi tên là thành Thăng Long (theo “Đại Việt sử kí toàn thư”).

Nhà Lý (1010-1226) bước đầu xây dựng đất nước và củng cố lực lượng quân đội. Trước nguy cơ xâm lược của nhà Tống, nhà Lý chuẩn bị kháng chiến đánh giặc, Thái úy Lý Thường Kiệt đảm đương việc tổ chức, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống nhà Tống xâm lược vào cuối thế kỉ 11. Mùa thu năm 1076, quân Tống hùng hổ kéo vào xâm lược nước ta, vua tôi và quân dân đều đồng lòng đánh giặc. Lý Thường Kiệt đã tổ chức phòng tuyến chặn giặc tại sông Như Nguyệt (sông Cầu, Bắc Ninh), hai lần dẫn quân đánh vào quân Tống trên phòng tuyến và đã đập tan được 30 vạn quân Tống.

Thiếu nữ Hà Nội. Ảnh: Hoàng Như Thính

Cũng chính tại phòng tuyến sông Như Nguyệt, đêm đêm tướng quân nhà Lý đã được nghe bài thơ đọc to từ đền Trương “Nam quốc sơn hà”, dân gian truyền nhau bài thơ do Lý Thường Kiệt viết: “Sông núi nước Nam vua Nam ở/Rành rành định phận tại sách trời…”. Có thể nói bài thơ này là một trong những bản tuyên ngôn độc lập cổ nhất ở nước ta, khẳng định chủ quyền của Đại Việt.

Đến đời nhà Trần (1226-1400) đóng đô ở Thăng Long, đã lãnh đạo quân dân 3 lần đánh tan quân Nguyên-Mông xâm lược, làm chói lọi thêm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Trong cuộc kháng chiến đọ sức một mất một còn, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã viết “Hịch tướng sĩ” với những lời khuyên răn tướng sĩ thắm tình cha con, nêu nghĩa lớn của việc cứu nước, cứu mình. Những chiến thắng Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, Thăng Long, Vạn Kiếp đã đi vào lịch sử dân tộc, đánh cho quân giặc tan tác buộc chúng phải rút chạy về nước.

Đông Quan và thành Đông Đô

Năm 1417, lợi dụng nhà Hồ thay nhà Trần đang gặp nhiều khó khăn trong nước, nhà Minh mang quân sang chiếm Đại Việt và gọi Thăng Long là Đông Quan (Đông Đô), đổi tên nước là quận Giao Chỉ, âm mưu đồng hóa dân tộc và sáp nhập vào nhà Minh. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427) nổi lên vị anh hùng dân tộc Lê Lợi và Nguyễn Trãi với những chiến thắng vang dội Tốt Động-Chúc Động, chiến thắng Chi Lăng-Xương Giang, đã buộc quân Minh ở thành Đông Quan phải đầu hàng và rút quân về nước.  “Bình Ngô đại cáo”-áng thiên cổ hùng văn của Nguyễn Trãi cũng là một bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố chủ quyền về nền độc lập, tự chủ của dân tộc. Hào khí Đông Đô đã tỏa sáng, làm rạng rỡ thêm lịch sử giữ nước của dân tộc.

Phong trào Tây Sơn và cuộc kháng chiến chống xâm lược Mãn Thanh

Tháng 11-1788, lợi dụng tình hình các phe phái trong nước ta tranh giành quyền lực (chiến tranh Trịnh-Nguyễn) và phong trào Tây Sơn đang nổi lên. 20 vạn quân Thanh (gồm cả dân phu) đã ồ ạt tiến sang đánh nước ta và chiếm thành Thăng Long. Nhận được tin báo khẩn cấp, vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) đã cấp tốc dẫn đại quân ra đánh quân Thanh xâm lược. Chiến thắng Ngọc Hồi (ngày 29-1-1789, tức mồng 4 Tết Kỷ Dậu), chiến thắng Khương Thượng-Đống Đa (mồng 5 Tết Kỷ Dậu) đã đánh tan quân Thanh.

Hà Nội kháng chiến đánh Pháp và đánh Mỹ

Cuối thế kỉ 18, Nhà Nguyễn đổi tên Thăng Long là Hà Nội. Giặc Pháp mang quân đánh chiếm Hà Nội, Tổng đốc thành Hà Nội Nguyễn Tri Phương (1800-1873) và con trai là Nguyễn Lâm đã hi sinh để bảo vệ thành Thăng Long. Tổng đốc Hoàng Diệu (1829-1882) đã tự vẫn khi thành Thăng Long bị thất thủ. Đến giữa thế kỉ 20, một sự kiện trọng đại rực sáng khắp nước ta, Cách mạng Tháng Tám-1945 thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt đồng bào cả nước, đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ lại tiếp tục, hàng vạn thanh niên Hà Nội đã cùng cả nước tòng quân, xung phong vào miền Nam đánh giặc. Đỉnh cao nhất của cuộc chiến tranh chống Mỹ là tháng 12-1972, giặc Mỹ mở cuộc tổng công kích bằng pháo đài bay B.52 hòng hủy diệt Hà Nội, bắt Hà Nội phải quay trở về thời kì đồ đá và phải cúi đầu khuất phục. Cả Hà Nội đã đứng lên hiên ngang và dũng cảm đánh giặc, rồng lửa Thăng Long đã bắn rơi 34 chiếc B52, đã góp phần đập tan cuộc tập kích chiến lược của giặc. Chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” đã tô điểm thêm lịch sử chói lọi mảnh đất Thăng Long ngàn năm văn hiến. Hà Nội mãi mãi là niềm tự hào, Thủ đô anh hùng và hòa bình của cả nước…

HOÀNG NAM