Từng ước mơ làm phi công nhưng lại thành một sĩ quan trinh sát, từng được chọn đi học nhảy dù nhưng lại làm nhà giáo, từng được đào tạo sĩ quan lục quân nhưng lại gắn bó với nghiệp cán bộ chính trị... Binh nghiệp như những cuộc "nhảy dù", nhưng Đại tá Lê Viết Anh luôn yêu công việc như yêu dòng sông Ngàn Phố quê mình...

Ánh đèn đêm và món quà tặng mẹ

Quê anh, xã Sơn Bằng, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, nằm cạnh dòng sông Ngàn Phố, tên gọi thật thơ mộng nhưng chẳng có một cái "phố" nào cả mà chỉ là làng quê nghèo "đất cày lên sỏi đá". Bố anh, một ông giáo làng thường bảo con: Để thoát nghèo, phải học tốt. Những đêm khuya, ngôi nhà nhỏ vẫn le lói ánh đèn dầu ôn bài. Dạy con như thế, nhưng khi đất nước chiến tranh, bố anh lại cho cả 3 đứa con trai vào bộ đội, anh mơ ước thành phi công.

Tháng 3-1975, anh xung phong nhập ngũ, huấn luyện ở Trung đoàn 22 (Quân khu 4) để chuẩn bị vào Nam. Chưa kịp ra trận thì miền Nam giải phóng, anh được cử đi học lớp kỹ thuật đường sắt để "đón đầu" việc hàn gắn vết thương chiến tranh. Đầu năm 1976, anh về Trung đoàn 2, Sư đoàn 341B, Tổng cục Xây dựng kinh tế, hằng ngày phá đá, mở đường. Nơi anh đến là Hà Giang, Sơn La, Yên Bái... Hết chân phồng, tay rát cầm cuốc xẻng, anh lại được trên chọn làm nhân viên quân lực vì chữ đẹp và được kết nạp Đảng ngay trên công trường Tây Bắc mù sương. Ánh đèn đêm học bài tưởng như đã nhường chỗ cho ngọn đuốc làm đường thì một ngày nọ, anh được Phó tham mưu trưởng trung đoàn gọi lên:

Đại tá Lê Viết Anh: "Nếu yêu mến chính những người xung quanh mình thì sẽ thành công".

- Đồng chí hãy chọn người thay thế mình để đi học sĩ quan!

Năm 1980, anh thi đỗ Trường Sĩ quan Lục quân 1, được chọn học ngành trinh sát đặc nhiệm đầy khó khăn, vất vả, đòi hỏi phải nhanh nhẹn, bản lĩnh, có sức khoẻ tốt. Là đảng viên trẻ gương mẫu, anh nhanh chóng trở thành một "ngôi sao sáng" của khoá học. Học giỏi, có uy tín, anh được trên tin cậy bổ nhiệm làm trung đội phó, trung đội trưởng kiêm chức, được chọn vào lớp huấn luyện nhảy dù cho những trinh sát đặc biệt. Mùa xuân 1982, anh vinh dự là một trong 22 đại biểu thanh niên quân đội đi dự Festival thanh niên Việt - Xô lần thứ 5.

Mùa thu 1983, người sĩ quan trẻ mang quân hàm trung úy khoác ba lô về làng. Mẹ đón anh đầu ngõ, tóc đã bạc màu như ánh dòng sông ban chiều, run run cầm món quà đầu tiên anh tặng mẹ sau 8 năm đi bộ đội: Mảnh vải phin trắng, tặng phẩm mà hiệu trưởng trao cho anh, học viên 3 năm học giỏi, chiến sĩ Quyết thắng (cùng mảnh vải còn có cái xoong nhôm nhỏ nhưng anh đã tặng một đồng đội mới cưới vợ). Mẹ khóc vì mừng vui, nhớ ngày anh còn nhỏ, mẹ nằm cạnh động viên anh học và còn để "nghe" máy bay Mỹ canh chừng cho con.

 Người gieo hạt giống tâm hồn

Sau thời gian thực tế ở tuyến đảo Đông Bắc, anh vui mừng được về trường nhận nhiệm vụ mới. Nhưng bất ngờ, trên giao anh làm giảng viên Khoa Lý luận Mác - Lê-nin. Bài giảng đầu tiên về "Công tác xây dựng chi bộ", anh cần mẫn một tháng chuẩn bị để tạo được "cái riêng". Hôm lên lớp, anh dừng lại hỏi học viên: "Anh em có hiểu không?". Thật vui vì cả lớp trả lời bằng một… tràng pháo tay giòn giã. Từ chỗ nổi tiếng vì đi học nhảy dù về, anh trở nên nổi tiếng hơn với những bài giảng lý luận sâu sắc, dễ hiểu, thường gắn những nội dung lớn lao về Đảng, về CNXH với công việc bình dị của người sĩ quan tương lai…

Năm tháng dần trôi, sau những "cua" tu nghiệp ở Học viện Chính trị và đi thực tế, anh phát triển lên chủ nhiệm bộ môn, Phó chủ nhiệm Khoa Lý luận Mác - Lê-nin. 18 năm "cầm phấn", có đến mười mấy năm anh là chiến sĩ thi đua, chiến sĩ quyết thắng,  giảng viên dạy giỏi cấp trường, cấp Bộ Quốc phòng. Đó còn là 18 năm "biết bao nhiêu tình" với những học viên thân yêu. Có lần, Hạnh, học viên khóa 53, học đến năm thứ 3 mà vẫn có tư tưởng chán nản, muốn bỏ học. Hạnh rất quý anh. Hôm ấy, cậu ta ra nhà anh chơi, kể lể hoàn cảnh rồi hỏi vay tiền mua một cái áo. Đã định rút tiền đưa Hạnh nhưng nhìn trong mắt cậu ta có nét buồn, anh biết ý định "chuồn" đã le lói trong cậu ta. Cho Hạnh vay tiền sẽ đồng nghĩa với việc cậu ta lấy tiền ấy mua vé tàu, bỏ học về quê. Ba buổi tối sau đó, ngày nào anh cũng vào trường, ngồi tâm sự tới 12 giờ đêm với Hạnh, động viên, phân tích từng điều phải trái. Tới đêm thứ 3 thì Hạnh hiểu ra, xin hứa ở lại học. Sau này, Hạnh đã tốt nghiệp, trở thành một sĩ quan phấn đấu tốt.

Năm 2004, anh được bổ nhiệm làm Phó chủ nhiệm Chính trị nhà trường và từ năm 2007 là Chủ nhiệm Chính trị. Rời bục giảng nhưng anh vẫn hòa mình vào thực tiễn sinh động của giáo viên, học viên khi trên giảng đường, khi ngoài thao trường hay cả lúc họ dầm mình trong mưa gặt lúa giúp dân. Công việc bộn bề với nắm tư tưởng, nắm tổ chức, xây dựng đội ngũ, vậy mà hôm tôi đến, lại thấy anh cặm cụi sửa bản thảo cuốn sách "Những người gieo hạt giống tâm hồn", viết về "những tấm gương bình dị mà cao quý" của nhà trường. Anh luôn trân trọng những điều tốt đẹp từ những con người bình dị và yêu mến nhiệm vụ được giao, rất tôn trọng quyết định của tổ chức. Chúng tôi, những học trò của anh sau này, đã nhiều lần nghe anh tâm sự: "Ở đâu thì cũng là quân đội ta cả, chỉ bao giờ mình yêu mến công việc, yêu mến chính những con người xung quanh mình thì mình tất sẽ thành đạt. Lúc đó, dòng sông ước mơ sẽ đổ vào biển cả thành công!".

Nghe anh kể về phong trào "Ánh đèn đêm, học thêm ngoài giờ" của thanh niên nhà trường hôm nay, tôi như thấy có cả bóng hình thời trẻ đầy nghị lực của anh năm nào...

Bài và ảnh: Hồng Quang