12 lần là Chiến sĩ thi đua cơ sở, hai lần là Chiến sĩ thi đua toàn quân, là một trong những chuyên gia triết học Mác - Lê-nin nổi tiếng trong quân đội, tác giả của hàng chục cuốn sách lý luận... Đó là đôi nét phác thảo về Thượng tá, Phó giáo sư Nguyễn Bá Dương - Trưởng Phòng Khoa học, Công nghệ và Môi trường (Học viện Chính trị).
 |
|
PGS Nguyễn Bá Dương
|
Làm việc gấp 10 định mức
Có lần, tới thăm quê anh, tôi ngạc nhiên khi thấy con đường nhỏ dẫn vào làng được bà con gọi là "đường anh Dương". Hai tuần trước khi vào bộ đội, thấy con đường đi vào làng quá lầy lội, anh đã tình nguyện một mình san lấp, làm một con đường mới…
Là con thứ 5 trong gia đình có tới 12 anh em, Dương rất ham làm, ham học. Năm 1978, anh đoạt giải thưởng quốc gia kỳ thi học sinh giỏi, được chọn đi học nước ngoài nhưng khi biên giới Tây Nam đang "nóng", anh viết đơn tình nguyện nhập ngũ.
Sau hai năm nhập ngũ, anh được kết nạp Đảng, được cử đi học Triết học tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và được cử đi học tại Liên Xô sau năm thứ nhất. Triết học cuốn hút anh đến nỗi, chị Hợi, người bạn gái sau là người bạn đời của anh kể lại: "Anh ấy chăm học và tằn tiện lắm. Yêu nhau mà năm chỉ gặp một lần". Tài liệu về đổi mới rất ít, thế mà Dương dám lựa chọn đề tài tốt nghiệp về "Tư duy mới và sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam" và hôm bảo vệ luận văn, tất cả các thầy đều chấm cho anh điểm 5, điểm cao nhất. Anh được Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp đề nghị cho phép chuyển tiếp làm nghiên cứu sinh.
Trước những biến cố ở Đông Âu, việc đi nghiên cứu sinh tạm dừng. Anh được điều về Học viện Chính trị quân sự công tác và được phong hàm trung úy khi đã ở tuổi 30, thiệt thòi hơn những bạn đồng khóa.
Làm giảng viên một học viện lớn, anh gặp không ít khó khăn. Cái gì thiếu? Kiến thức quân sự? Thực tiễn? Thông tin trong nước? Anh lao vào học, đọc, chuẩn bị kỹ lưỡng cho mỗi bài giảng. Sau năm học đầu tiên, anh đã được tặng giấy khen vì thành tích giảng dạy. Anh tâm sự: "22 năm cầm phấn, đối với tôi, bài giảng nào cũng đều là "một trận đánh", được chuẩn bị rất công phu, nghiêm túc, dự tính mọi tình huống. Tôi đã phải làm việc gấp 2-3 lần so với đồng nghiệp để bù đắp những chỗ thiếu hụt".
Nhiều thế hệ học trò khi nhắc đến Phó giáo sư Nguyễn Bá Dương đều rất ấn tượng với tài năng và cái duyên sư phạm của anh. Anh luôn gần gũi, giao lưu với người học và thuộc lòng tất cả các bài giảng của mình. Có giáo án nhưng không bao giờ anh phải nhìn vào giáo án. Từ năm 2005 đến nay, anh được bổ nhiệm làm Trưởng phòng Khoa học, Công nghệ và Môi trường của học viện, nhưng vẫn luôn tâm huyết với nghề sư phạm. Mỗi năm, anh vẫn tham gia giảng dạy hàng trăm tiết triết học.
Năm 1992, khi còn mang hàm trung úy, anh đã mạnh dạn viết bài báo khoa học đầu tiên, đề cập vấn đề gai góc: "Đối tượng triết học và những vấn đề tranh luận". Bài báo được Ban biên tập Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự đánh giá cao nhưng còn e ngại "quân hàm thấp quá". Tổng biên tập đã "quyết": Trung úy mà bài hay thì cứ đăng! 30 năm qua, anh đã công bố 6 cuốn sách chuyên khảo. Hằng ngày, anh đều làm việc 12 - 13 giờ. Hằng năm, thời giờ hoạt động khoa học của anh thường vượt từ 8 đến 10 lần số giờ định mức đối với phó giáo sư. 5 năm qua, anh là thành viên 3 đề tài cấp Nhà nước, nhiều đề tài cấp Bộ Quốc phòng, chủ biên 5 bộ giáo trình, đồng chủ biên 12 giáo trình khác, trưởng ban biên tập 150 đầu sách, công bố hàng trăm bài báo khoa học…
Phía sau thành công
Anh còn nhớ bài thơ người bạn tặng lúc về nước: "Ngày mai bạn về nước/ Mà chẳng có tiền hàng/Va-li bạn đầy sách/ Đời bạn thật là… sang". Anh là người duy nhất trong khóa học mang được tấm bằng đỏ Triết học về nước nhưng cũng là người duy nhất không mang được một thùng hàng nào về ngoài sách. Và… "cơm áo không đùa với… nhà khoa học". Về nước, đồng lương ít ỏi, anh là giảng viên, chị là cảnh sát hình sự, nhà ở chưa có, các con còn nhỏ, khó khăn chồng lên khó khăn…
Có lần, một học trò tới thăm nhà, sững sờ khi thấy thầy đang lúi húi cuốc đất trồng rau bên túp lều "chị Dậu" đi thuê trên vùng đất chờ giải tỏa. Cạnh lều là một chuồng lợn bẩn thỉu. Hết giờ dạy học, anh về lại lao vào trồng rau, nuôi lợn để có thêm chút thu nhập. Vậy mà anh còn hóm hỉnh: "Lợn nuôi tiến sĩ, chứ không phải… tiến sĩ nuôi lợn đâu nhé". Khi các khu nhà thuê bị giải tỏa, có những buổi tối mùa đông, anh và vợ con phải đến ở nhờ nhà bà chị vợ trên phố Lý Thường Kiệt, hàng chục người trong một căn hộ 22m2. Ngại chị nghèo, mình cũng nghèo, nhiều tối đói quá, anh không dám nói với ai, một mình lặng lẽ đi ra bờ hồ ngồi suy ngẫm về công việc, về bài giảng cho đỡ đói, đỡ buồn… Bất giác, anh thò tay vào trong túi, tấm vé máy bay bạn gửi cồm cộm trong ngực áo bộ đội bạc màu. Biết anh khó khăn quá, bạn anh, anh Lê Phi Hùng đang buôn bán bên Nga đã viết thư về, bảo anh sang buôn bán cùng anh ấy lấy tiền trang trải cuộc sống rồi có điều kiện thì học tiếp lên tiến sĩ. Tấm vé máy bay bạn gửi như một lời hứa hẹn cứ cộm lên thôi thúc. Ý tưởng bỏ nghề đã "le lói" trong anh!
Trời cuối năm lạnh giá mà những giọt nước mắt tủi buồn đã rơi xuống quân hàm, cọ vào má anh nóng hổi. Anh chợt giật mình, nhìn ve áo đỏ thẫm. Màu đỏ của tấm bằng Triết học mang về từ Nga, màu đỏ của lá cờ Đảng, màu đỏ của máu hàng trăm đồng đội cùng ngày nhập ngũ cùng anh đã nằm lại bên kia biên giới Tây Nam trong những năm anh học hành, nghiên cứu… Không lẽ giã từ tất cả chỉ vì một… ngôi nhà sao?
Anh đứng dậy, đi thẳng về nhà, lấy xe đạp vào học viện. Đêm ấy, anh thắp đèn, viết cho bạn lá thư trả lời: Mình sẽ ở lại, bạn hãy giúp mình để mình ở lại!
Anh đã dùng "trái tim Đan-kô" triết học để tự soi rọi và tìm cho mình hướng đi về phía mặt trời…
Bài và ảnh: Nguyễn Văn Minh