Vô vọng trong những ngày tìm con khắp đất Hà thành, ông Nguyễn Văn Nức (tổ 2, thị trấn Cầu Diễn, Từ Liêm, Hà Nội) đành nuôi niềm hi vọng qua những vần thơ. Biết đâu, ở nơi nào đó, người con gái thất lạc đọc những câu thơ của cha mà biết đường tìm về với gia đình.

 Tìm con bằng thơ

Ông Nức với tập thơ “Dấu ấn cuộc đời”

Trong chén trà nóng tại phòng bảo vệ của UBND thị trấn Cầu Diễn, ông Nức với khuôn mặt suy tư, rưng rưng hai hàng nước mắt kể cho chúng tôi nghe câu chuyện buồn của 13 năm về trước.

“Trong thời gian 13 năm, tôi viết hơn 300 bài thơ, từng câu thơ là nỗi nhớ thương con da diết. Mỗi bài sau khi sáng tác, kèm theo là một dòng địa chỉ tôi mang đến tận tòa soạn các báo với hi vọng bài thơ được đăng, người con gái thất lạc bé bỏng ở nơi nào đó sẽ đọc được và tìm về với gia đình. Cứ thế, sau 13 năm không một thông tin về con nhưng tôi vẫn có một niềm tin nho nhỏ...”! - ông Nức tâm sự.

Ông Nức là một sĩ quan quân đội về hưu, sống ở thôn Dương Khê, xã Phương Tú, Ứng Hòa, Hà Tây (cũ). Bấy lâu sức khỏe của ông rất yếu, vợ ông mắc bệnh thần kinh tọa mà vẫn phải đi mò cua, bắt ốc bán kiếm tiền nuôi con ăn học. Năm đó gia đình ông có hai người con vào cấp 3 là Nguyễn Thị Hiền, lớp 11 chuyên văn; Nguyễn Văn Đức, lớp 10 (Trường THPT Vân Đình, Ứng Hòa). Gia đình kinh tế khó khăn lại phải đóng học phí cho hai đứa con cùng một lúc nên không có tiền. Hiền đã nhường tiền cho cậu em trai, còn mình chờ đến ngày bố lĩnh lương hưu.

Không được vào lớp học do không có tiền đóng học phí, Hiền lên Hà Nội đón bố đi lĩnh lương hưu để về nộp cho kịp. Hiền đã từng lên Hà Nội với bố vài lần bằng xe đạp nhưng đi đường tắt. Chưa hiểu nhiều về Hà Nội, Hiền chỉ biết về Hà Nội qua những lời kể của bố. Cầm chặt mảnh giấy ghi địa chỉ của bố trên tay, cô đi cùng vài người làng ra thành phố.

Cô gái 16 tuổi hiền lành, chất phác ấy đâu biết rằng, đó là ngày định mệnh cho cuộc đời lưu lạc nhiều tủi nhục cay đắng.

Lúc xuống xe, đang ngơ ngác hỏi đường thì một người phụ nữ dẫn theo một đứa bé đang khóc đi tới. Người phụ nữ này nhờ cô dỗ hộ đứa trẻ, bà ta đã tìm đủ cách mà đứa bé vẫn không chịu nín. Sau khi Hiền dỗ được đứa bé nín, người phụ nữ “trả ơn” bằng cách mời Hiền vào nhà uống cốc nước cam, thay cho lời cảm ơn. Nhưng Hiền đâu nghĩ đó là một cạm bẫy đã bị sắp đặt, cô đã bị lừa bán sang Trung Quốc lúc nào không hay.

Sau khi lĩnh lương hưu ở Xí nghiệp Z191, ở thị trấn Cầu Diễn, trở về, vợ ông ngạc nhiên hỏi: “Cái Hiền ra đón ông, sao hai bố con không về cùng?”. Một ý nghĩ chẳng lành thoáng qua trong đầu, ông vội quay xe đạp trở lại đơn vị cũ tìm con, đạp xe rong ruổi trên những con đường, nhiều lúc xe hỏng phải dắt bộ hàng cây số. Một ngày, hai ngày,... thời gian cứ nối tiếp nhau trôi qua, con gái ông vẫn bặt vô âm tín.

“Lúc đó tôi chỉ biết con bị lạc ở Cầu Giấy, Hà Nội, không một chút thông tin, nhiều người khuyên tôi đừng tìm con trong vô vọng nhưng tôi vẫn nuôi một niềm hi vọng, không còn đủ sức đi các nơi tìm con, tôi đã gieo niềm hi vọng qua những vần thơ”-ông Nức tâm sự.

Dù biết điều đó là không tưởng nhưng với tình thương yêu và nỗi nhớ con, ông đã sáng tác nhiều bài thơ đăng trên các báo, khiến nhiều người khâm phục. Đọc những câu thơ đó mới cảm nhận được tình phụ - tử thiêng liêng làm sao.

“Cha mẹ đi khắp thành Hà Nội

Tìm con đáy bể mò kim

Đã hai tuần không thấy một tin

Ngồi nghiêng ngả bữa ăn thừa bát đũa

Lòng cha mẹ nóng bừng như có lửa

Họ hàng thăm nước mắt mẹ lưng tròng

Nhà đông vui giờ nhường cho khoảng trống

...

Lòng mẹ cha trăm mối tơ vò

Ai đã lấy của mẹ cha bớt đi hơi thở

Lấy những hồng cầu chiu chắt đắng cay

Lấy nhớ thương vũ trụ hao gầy

Bao câu hỏi mẹ cha gánh chịu

Đẻ con ra chưa lo liệu đủ điều

Nhưng cha biết là con thấu hiểu

Dù nơi đâu nước cũng chảy về nguồn”

(Trích trong bài thơ “Nỗi nhớ tìm con” - tháng 10-1995)

13 năm qua đi, ông gửi trọn những nhớ thương, hi vọng vào những vần thơ giản dị ấy. 300 bài thơ là hàng trăm lần ông hồi tưởng lại hình ảnh của cô con gái trong tiềm thức.

Lật cuốn sổ tay đã rách bìa, giở những trang giấy ố vàng, ông Nức cho tôi xem những bài thơ ông đã viết.

Ông kể: “Nhiều người bảo tôi đem đi in, xuất bản một tập, nhưng tôi làm thơ để giãi bày lòng mình, để tìm con gái tôi. Tôi muốn, khi nó trở về, tôi sẽ đưa cho nó tập thơ này làm kỉ niệm. Bao năm qua đi, nhưng chưa bao giờ tôi hết hi vọng, mong rằng, nó đừng về khi quá muộn. Tôi có chết đi, cũng phải nhìn thấy nó lần cuối”.

 “Con Hiền của bố đã về”

 Vào một ngày đầu tháng 7-2008, vẫn như thường lệ, ông đến cơ quan làm việc, nhưng con người ông hôm nay sao cứ bồn chồn, thấp thỏm, linh tính có điều gì xảy ra, ông định đạp xe về nhà thì có người đến báo tin: “Ông Nức ơi, về nhà nhanh lên, con gái Hiền của ông nó về đấy!”. Bán tín, bán nghi, thẫn thờ trong giây lát, ông đạp xe một mạch về nhà, con đường hôm nay dường như dài hơn, hay do ông mong chờ ngày này từ lâu rồi...?

Chị Hiền (áo vàng) và con trai trong ngày sum họp gia đình

Trong con ngõ nhỏ vào nhà, cả một đoàn người tập trung, khiến ông thêm hồi hộp, xen lẫn cả sự lo lắng khi thấy người vợ đang ngồi khóc nức nở. Chưa kịp định thần thì từ phía trước, một người phụ nữ ôm chầm lấy ông nghẹn ngào trong tiếng khóc: “Bố, con Hiền của bố đã về”. Lại thêm một giây phút chết lặng, ông cứ thần người, không tin vào những gì đang diễn ra, ông chỉ thốt lên: “Đây là sự thật, hay tôi đang mơ?”. Câu hỏi đó đã được trả lời bằng chính vòng tay ôm siết chặt của người con gái sau 13 năm xa cách.

Để có được ngày đoàn tụ như ngày hôm nay, Hiền kể, khi bị ngất lịm đi ở Hà Nội, tỉnh sau giấc ngủ dài, Hiền thấy xung quanh nhốn nháo toàn người lạ. Họ nói một thứ tiếng gì đó cô không hiểu. Mãi sau, có một người nói lơ lớ tiếng Việt, dẫn người đàn ông tóc đã hoa râm, trông ốm yếu đến bảo với cô: “Đây là chồng của mày, mày đã được gả bán cho người đàn ông này”. Bất ngờ, sợ hãi với thông tin mà người đàn ông phiên dịch vừa nói, cô gào khóc đòi tìm đường về nhà. Liền những ngày sau đó là những trận đòn đau của người chồng, là những ngày bị bỏ đói trong căn nhà hoang lạnh lẽo bên xứ người. Đêm nào cô cũng khóc, nhớ bố mẹ, nhớ các em, lại có phần tủi cực cho thân mình.

Biết không thể thoát khỏi sự giám sát của nhà chồng, từ đó, Hiền bắt đầu chấp nhận cuộc sống và luôn nuôi hi vọng một ngày trở về với gia đình. Ban đầu, mọi cố gắng liên lạc về với gia đình đều vô vọng, bởi chỗ cô ở chỉ là vùng đồi núi hẻo lánh của Trung Quốc. Để có thể trở về đoàn tụ với gia đình, cô bắt đầu tạo dựng niềm tin từ gia đình nhà chồng. Hiền ngoan ngoãn, học tiếng địa phương nhanh, dần hòa nhập vào cuộc sống mới. Sau khi sinh được ba người con (hai trai, một gái), cô đã tạo được niềm tin với gia đình nhà chồng và được họ xin cho làm công nhân tại một công ty may cách nhà chừng 600 cây số. Khi đã dành dụm được chút tiền và được nghỉ phép, Hiền đã xin phép gia đình nhà chồng cho về Việt Nam thăm gia đình.

Không chỉ về một mình, đi cùng Hiền còn có một cậu con trai đã 10 tuổi rất hòa đồng, thông minh. Về quê vỏn vẹn được ba ngày, chị lại qua bên đó tiếp tục công việc và chăm sóc gia đình chồng.

Ngày Hiền lên đường cùng con trở về Trung Quốc, ông Nức dúi vào tay con quyển sổ đã ố màu với những dòng thơ còn đọng lại trong từng trang giấy. Ông Nức nói: “Trong bằng đấy đứa con, có Hiền say mê thơ văn giống bố, tôi dành riêng những bài thơ này cho con”.

13 năm qua như một trò đùa quái ác của số phận, để bố con ông Nức phải đi tìm nhau. Chừng ấy thời gian, chừng ấy lo âu in lên những vần thơ khắc khoải. 300 bài thơ tuy nhiều, nhưng nói sao hết được tấm lòng của những người cha như ông.

  Thấy đứa con trở về, ông vui mừng không sao tả xiết. Ước nguyện lớn nhất trong 13 năm qua giờ đã thành sự thật. Bây giờ ông chỉ mong sao các con mình khỏe mạnh, các cháu ông ăn học thành người. Còn ông vẫn tiếp tục sáng tác những bài thơ về chủ đề ông yêu thích, nhất là về tình yêu.

Khi chén trà đã nhạt cũng là lúc chúng tôi phải ra về. Cầm trên tay những bài thơ ông tặng, tôi không sao giấu được niềm cảm động và khâm phục. “Con Hiền hay gọi điện về cho tôi lắm...!”- Câu nói đầy vẻ tự hào sung sướng như một phần an ủi ông sau suốt 13 năm sống trong vô vọng...!

Bài và ảnh: HOÀNG DÂN-HOÀNG CHIÊN