QĐND - Cách đây gần 9 năm, khi lần đầu tiên bước chân vào Trung tâm Điều dưỡng Thương binh Nho Quan, nơi được coi là “đại bản doanh” thương binh tâm thần, tôi cứ phân vân: Không hiểu những người phục vụ ở đây làm việc như thế nào? Liệu có người bệnh nào đang trong nỗi u mê, hoang loạn bỗng trở lại cuộc sống thực người bình thường?
Từ ấy đến nay đã nhiều lần trở lại nơi này và tôi đã hiểu…
Nơi chăm sóc những thương binh đặc biệt
Trại Điều dưỡng Thương binh C vốn là tên gọi cũ của Trung tâm Điều dưỡng Thương binh Nho Quan hiện nay, nằm gần xóm Cối, xã Đồng Phong, huyện Nho Quan (Ninh Bình). Tròn 50 năm qua, cơ sở chăm sóc, điều dưỡng thương binh, bệnh binh này gắn liền với hình ảnh những bệnh nhân tâm thần, từng nhiều lần đánh cả người phục vụ. Chính vì vậy, mỗi khi phải đi qua đây, ngay cả người lớn cũng ngại chứ nói chi trẻ con...
Vậy mà, cái nơi vốn làm nhiều người “sợ” và “ngại” ấy lại có một đội ngũ y sĩ, bác sĩ, hộ lý, điều dưỡng viên rất tận tâm, gắn bó trọn đời với công việc. Người trước nghỉ, người sau tiếp nối. Có gia đình 3 thế hệ gắn bó với trung tâm. Gia đình ông Nguyễn Đình Phúc, hiện sống tại xã Đồng Phong, huyện Nho Quan, là một trong những trường hợp như thế. Ông Phúc năm nay đã 68 tuổi, trước khi nghỉ hưu có 36 năm làm việc bên những thương binh, bệnh binh tâm thần. Gặp gỡ, trò chuyện, ông say mê kể với tôi về những năm tháng công tác trong trung tâm. “Bố mẹ tôi ngày trước đã từng làm hộ lý, chăm sóc thương binh. Rồi đến tôi và vợ tôi. Bây giờ là cô em ruột và thằng con lớn…” - ông Phúc hồn hậu nói.
Nhắc tới những kỷ niệm ngày đầu, ông Nguyễn Đình Phúc bày tỏ: “Thời điểm giữa năm 1965, do số thương binh từ mặt trận đưa về ngày càng nhiều nên trên quyết định di chuyển 47 thương binh, bệnh binh và 7 cán bộ, nhân viên phục vụ từ Trại Thương binh 4 (tỉnh Nghệ An) ra Ninh Bình. Trong số ấy, chủ yếu là những thương binh có vết thương liên quan đến thần kinh. Địa điểm đóng quân trên nền trang trại cũ của gia đình địa chủ Lý Thị Hoàn, được Nhà nước trưng thu. Từ đó đã ra đời cơ sở điều dưỡng thương binh tâm thần này”.
Nay thì Trung tâm Điều dưỡng Thương binh Nho Quan đã trở thành một “thương hiệu” nổi tiếng về chăm sóc, điều dưỡng bệnh nhân bị mắc bệnh tâm thần.
Bác sĩ Lâm Quang Đạo, Giám đốc Trung tâm Điều dưỡng Thương binh Nho Quan, là một người cởi mở, dễ gần. Ông nói rằng, hầu hết những người đang điều dưỡng tại đây là thương binh hạng đặc biệt và 1/4, mất sức từ 81% trở lên. Ngoài điều trị những cơn kích động cho bệnh nhân tâm thần sa sút mãn tính, điều trị loạn thần sau chấn thương sọ não, trung tâm còn phải lo chữa trị nhiều bệnh nội khoa khác. “Thật không có nỗi đau nào lớn bằng việc mất trí khôn. Điều trị cho thương binh tâm thần còn vất vả hơn nhiều so với bệnh nhân thường. Ở trung tâm, mọi người đã “thấm” một điều, nếu mình nhàn thì thương binh sẽ khổ. Muốn thương binh đỡ khổ, ngoài trách nhiệm công việc, đòi hỏi phải có tình thương, sự chia sẻ, cảm thông và lòng nhân ái” - bác sĩ Lâm Quang Đạo nói với tôi như vậy.
 |
Thương binh, bệnh binh và các nhân viên y tế chăm sóc vườn cây. Ảnh: Nhất Ngôn |
Vị giám đốc từng là bác sĩ quân y này có một “dấu ấn” khó quên trong sự nghiệp quản lý, chăm sóc thương binh tâm thần. Ngày còn làm Trưởng khoa K1, có lần ông phải lao vào giải cứu cho một nữ hộ lý bị thương binh đuổi đánh. Thật bất ngờ, bệnh nhân này dùng gậy khênh cơm phang một nhát chí tử vào mặt ông, làm rách cả môi, phải khâu 13 mũi, bây giờ vẫn còn sẹo...
Niềm riêng kẻ tỉnh, người mê!
Ở Trung tâm Điều dưỡng Thương binh Nho Quan, không chỉ có bác sĩ Lâm Quang Đạo, khá nhiều người từng bị “dính đòn” của người bệnh. Xác định chăm sóc, điều dưỡng thương binh vừa là trách nhiệm nhưng đồng thời cũng là tình cảm của những người… tỉnh táo, vì thế không ai kêu ca, phàn nàn hay đòi hỏi thêm chế độ gì. Phục vụ thương binh, bệnh binh, nhiều người đã thông cảm, thấu hiểu và nảy sinh tình cảm riêng. Anh Nguyễn Trung Hậu, Trưởng phòng Tổ chức - Hành chính của trung tâm nói với tôi rằng, đã có hơn chục người là nữ y tá, hộ lý tự nguyện lấy thương binh làm chồng. Chị Nguyễn Thị Hà, hiện là hộ lý công tác ở Khoa 2, là một trong số những phụ nữ dũng cảm đó.
Chị Hà sinh năm 1962, còn chồng là thương binh Phạm Văn Quế, sinh năm 1957. Anh Quế bị thương tại Mặt trận biên giới phía Tây Nam năm 1978, hiện vẫn còn mảnh đạn trong đầu. Năm 1985, sau khi cưới nhau, vì nhà gần trung tâm nên chị Hà xin phép được đưa chồng về chăm sóc. Người nữ hộ lý này bộc bạch với tôi rằng, đã tự nguyện lấy thương binh tâm thần thì cũng phải chấp nhận thiệt thòi, mà thiệt thòi lớn nhất là không thể chia sẻ, tâm giao mọi vui buồn cùng anh… Gần như mọi công to việc lớn trong nhà chỉ mình chị gánh vác. Hiểu bệnh tình của chồng nên chị không nỡ làm điều gì phật ý để anh có lý do… kích động. Tuy vậy, vẫn không thể tránh khỏi những hôm trái gió trở trời anh bất thần “nổi đóa” hành hung chị một cách vô thức! Một lần, trong lúc “lên cơn”, anh túm hai chân chị dốc ngược đầu xuống đất, quát: “Mày có muốn chết không?”. Chị cố kìm nén nỗi sợ hãi để vỗ về chồng: “Anh ơi, bỏ em ra nào, để em còn phải sống để nuôi con cho anh chứ”. Nhắc đến con, người thương binh bỗng đờ người, buông vợ ra… Với sự chăm sóc, thương yêu và cả đức hy sinh, nhẫn nhịn đến tận cùng, chị Nguyễn Thị Hà đã từng bước giúp chồng phục hồi chức năng. Chị bảo: “So với trước, giờ anh ấy tỉnh hơn nhiều rồi, hiền lắm, có thể phụ giúp tôi những công việc nhẹ nhàng, tĩnh tại”. Niềm hạnh phúc lớn nhất với chị là có hai đứa con trai khỏe mạnh, giống anh như đúc, hiện đã có việc làm ổn định tại trung tâm…
Khi tôi hỏi bác sĩ Lâm Quang Đạo về những biện pháp quản lý, điều dưỡng để thương binh giảm bớt cơn kích động, ông phấn khởi nói: “Thời gian qua, chúng tôi đã không ngừng đổi mới công tác quản lý bệnh nhân, trong đó mô hình “quản lý mở” được nghiên cứu, áp dụng có hiệu quả. Với mô hình này, bệnh nhân được sinh hoạt trong không gian rộng, có vườn hoa, cây xanh thoáng mát; có nhân viên chuyên môn quản lý hướng dẫn hoạt động liệu pháp, tạo cho người bệnh có cuộc sống chan hòa, cởi mở, gần gũi hơn với nhân viên phục vụ, với mọi người, dần xóa bỏ mặc cảm bị giam cầm, tù túng… Vì thế, trong hơn 10 năm trở lại đây, không có bệnh nhân nào bỏ trốn ra khỏi đơn vị.
Vẫn theo bác sĩ Đạo, trung tâm đã áp dụng nhiều đề tài, sáng kiến đúc rút từ kinh nghiệm thực tiễn, những thành tựu khoa học kỹ thuật; kết hợp giữa điều trị bằng thuốc Tây và các loại thuốc Đông y; giữa điều trị với nuôi dưỡng phục hồi; đồng thời xây dựng được nhiều phác đồ điều trị, áp dụng cho các thể bệnh một cách có hiệu quả. Nhờ đó, tỷ lệ bệnh nhân ổn định năm sau cao hơn năm trước, số lần bệnh nhân rối loạn kích động giảm dần, hiện tượng bệnh nhân đánh nhau, đánh lại nhân viên phục vụ còn rất ít...
Một cái kết có hậu mà tôi cần dẫn ra trong bài viết này. Vào năm 1967, chiến sĩ Trần Đình Hòe, quê ở xã Sơn Tân, huyện Quế Sơn (Quảng Nam) bị thương nặng vào đầu ở chiến trường miền Nam. Ông được chuyển về trung tâm trong tình trạng giấy tờ, hồ sơ thất lạc. Gia đình nghĩ ông đã hy sinh nên lập bàn thờ cúng giỗ hằng năm. Qua chăm sóc, điều trị, người thương binh này dần dần phục hồi được trí nhớ, rồi cưới vợ, sinh con và an cư ngoài Bắc. Có điều, dù cũng có “lúc tỉnh, lúc mê” nhưng ông không sao nhớ được địa chỉ quê nhà. Tưởng như người thương binh này sẽ sống mãi trong cõi hư mê hoang loạn về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, thì điều kỳ diệu đã đến. Vào một buổi sáng giữa năm 2010, ông Hòe bỗng bật lên những thanh âm rành rẽ về địa chỉ quê nhà. Mùa xuân năm đó, có một cuộc hạnh ngộ xúc động sau hơn 40 năm giữa gia đình, làng xóm với người “liệt sĩ trở về” Trần Đình Hòe!
Làm tất cả để tìm lại những phút giây thông tuệ, để giành giật với căn bệnh tối tăm nghiệt ngã giúp những người lính năm xưa trở lại ánh sáng cuộc đời. Đó là tâm niệm và đó cũng là nỗ lực lặng thầm của cán bộ, điều dưỡng viên Trung tâm Điều dưỡng Thương binh Nho Quan - đơn vị Anh hùng Lao động năm 2010.
Ghi chép của LÊ THIẾT HÙNG