Tháng 10 năm 1965, khi tôi đang làm Chủ nhiệm Khoa Thần kinh Viện Quân y 103 thì có quyết định vào chiến trường Tây Nguyên trong đội hình của Bệnh viện Trung ương quân đội, bộ phận công tác tại chiến trường miền Nam, mới được thành lập theo nghị quyết của Trung ương lần thứ 15. Thành phần của bệnh viện này có thể nói là khá mạnh vì lực lượng chủ yếu rút ra từ Viện 103 và Viện 108 với các trang bị kỹ thuật tốt và cán bộ chủ chốt ở các bộ phận.

Sau thời gian luyện tập hành quân đường dài bằng đeo ba lô gạch, leo núi hằng ngày, mọi người hăm hở chuẩn bị ra trận với khí thế hào hùng. Lệnh của trên là phải tuyệt đối bí mật khi xuất phát, nên vợ con cũng không được đi tiễn. Sau này mới biết, vợ tôi đã cùng ngồi với mấy chị em ở đầu cầu Long Biên, hy vọng được vẫy chồng để chia tay lần cuối mà cũng chẳng biết là chồng mình ngồi trên ô tô nào vì tất cả các xe đều phủ kín bạt cả.

Hết quãng đường miền Bắc, chuyển sang các trạm giao liên đường Trường Sơn là bắt đầu cuộc thử sức và ý chí con người với 30kg trên vai mà phải vượt qua bằng được các dãy núi mờ xanh xa tít tắp ở chân trời phía trước. Trên đường hành quân lội suối băng đèo, “rẽ lá mà đi” dưới bom đạn của phi pháo địch ngày đêm rình mò ngăn chặn. Tất cả mọi người chẳng ai bảo ai đều bắt đầu vứt dần những thứ không cần thiết, vứt không hề thương tiếc, thậm chí cái chăn mỏng cũng cắt vứt đi một nửa, cái cúc áo nào xét không thiết thực cũng cắt vứt luôn cho nhẹ bớt. Đi đến trạm giao liên 11, tôi bị gãy xương bàn chân do sa thụt xuống hầm. Nửa đường đứt gánh rồi chăng? Làm sao lê chiếc chân này vào chiến trường đây?

Đem lại nụ cười. Ảnh: CLB nhiếp ảnh chiến sĩ

Đồng chí đoàn trưởng, bác sĩ Nguyễn Văn Âu động viên tôi phải ở lại trạm điều trị, nếu không khỏi thì phải quay lại về Bắc. Bác sĩ Nguyễn Huy Đại băng bó cố định cho tôi rồi lại cùng mọi người tiếp tục lên đường. Ai chia tay cũng động viên, an ủi và nghĩ rằng tôi không thể vào chiến trường được.

Ở lại trạm giao liên, người ta xếp tôi vào ở cùng lán với số anh em đào ngũ (còn gọi là B quay). Lúc ấy bao nhiêu ý nghĩ cứ xáo trộn trong đầu, nhiều đêm không ngủ được để cố gắng tìm cách gì đó thoát ra khỏi tình trạng bế tắc này. Cuối cùng, tôi phải nhờ đồng chí y tá của trạm tác động vào các đồng chí trạm trưởng và chính trị viên trạm, mới được vào ở cùng các anh em giao liên. Hằng ngày, nhờ anh em giao liên ra “bãi khách” (Khu rừng tạm trú của các đoàn quân vào ra) gặp bất cứ đoàn nào có y bác sĩ cũng xin bông băng và thuốc men thêm cho tôi chữa bệnh. Trong thời gian ở trạm, tôi đã tranh thủ khám chữa bệnh, nhất là điều trị cho một số anh em giao liên bị sốt rét và sốt rét ác tính, nói chuyện về phòng bệnh, đặc biệt là phòng bệnh sốt rét và sốt xuất huyết, đau bụng ỉa chảy và viêm ruột thừa cấp cho toàn trạm. Các đồng chí chỉ huy trạm dọa là sau khi ổn định cái chân thì phải cho tôi quay lại miền Bắc. Tôi cố gắng thuyết phục thì họ bảo: Nếu cho đồng chí tiếp tục đi thì được vài trạm sẽ phải mất 8 giao liên khiêng đồng chí ra Bắc!

Sức hút của chiến trường miền Nam sao mà mạnh thế! Tôi hạ quyết tâm đi vào chứ nhất định không chịu làm anh “B quay”. Thật may cho tôi là có đồng chí chính ủy chỉ huy một số trạm giao liên, trước đây là bệnh nhân của tôi, sau khi biết chuyện đã ủng hộ tôi. Đồng chí chỉ thị cho các trạm tiếp theo, giúp tôi vào đơn vị bằng được chứ không phải là quay ra Bắc. Với cái nạng làm bằng chạc cây và một giao liên dẫn đường riêng giúp mang ba-lô, tôi cứ lần lần từng bước, vượt qua được cả cái dốc quái ác “Bo Phiên” để cuối cùng cũng tới được Tây Nguyên. Tôi lần lượt được giao nhiệm vụ: Chủ nhiệm Khoa Thần kinh, Phó viện trưởng Bệnh viện 211, Phó ban Quân y mặt trận B3. Cuối năm 1973, tôi ra Bắc họp Hội nghị Hậu cần toàn miền Nam. Đầu năm 1974, tôi tiếp tục trở lại chiến trường Tây Nguyên.

Cuộc chiến đấu ở chiến trường miền Nam ngày càng ác liệt, 3 năm, 5 năm, rồi 7 năm qua đi với biết bao thử thách gian lao mà vẫn chưa tới ngày toàn thắng. Mấy năm đầu, chiều chiều nghe tiếng “tắc kè! tắc kè”, anh em lại trêu nhau “Sắp về! Sắp về”, lâu quá lại bảo nhau “cóc về! cóc về”, rồi ôm nhau cười cay mắt.

Đầu năm 1975, tôi được trên giao Chỉ huy Quân y Mặt trận Tây Nguyên, đã cùng với Ban quân y Mặt trận, trực tiếp chuẩn bị và chỉ huy quân y cho chiến dịch giải phóng Đức Lập, rồi Buôn Mê Thuật. Có thể nói chiến dịch Buôn Mê Thuật được chuẩn bị mở màn rất chu đáo về mặt quân y và phòng dịch ngay cả khi bộ đội ta chiếm đóng thành phố. Tôi còn nhớ, trước giờ nổ súng đánh Buôn Mê Thuật, tướng Hoàng Minh Thảo điện hỏi tôi: Bộ đội ta sẽ đánh chiếm và trụ lại trong thành phố, anh đã cho quân y chuẩn bị phòng độc khi nguồn nước bị địch phá hoại chưa? Tôi báo cáo ngay: Mỗi tiểu đội đều đã được cấp thuốc tiêu độc nước rồi. Chiến dịch mở màn: “Quân ta đánh đẹp như diễn tập”, Tư lệnh Hoàng Minh Thảo đã phấn khởi điện về cơ quan chỉ huy chiến dịch như thế.

Thời gian trôi đi, đến nay tôi đã nghỉ hưu sau 50 năm phục vụ trong ngành y quân đội, trong đó, có 10 năm liên tục chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên là niềm tự hào sâu sắc của người thầy thuốc Bộ đội Cụ Hồ.

Tạ Lưu (Ghi theo lời kể của PGS, TS, Thầy thuốc ưu tú, Đại tá Vũ Quang Bích)