Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Cục Tác chiến-Bộ TTM có trách nhiệm phục vụ Bộ Chính trị và Thường trực Quân ủy Trung ương chỉ đạo tác chiến. Trong những lúc chuẩn bị cho hội nghị Bộ Chính trị và thường trực Quân ủy Trung ương, hoặc lúc tình hình tác chiến khẩn trương, ngoài báo cáo xin chỉ thị của đồng chí Lê Duẩn, tôi còn phải báo cáo các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ... Dù sớm hay muộn, bao giờ anh Trường Chinh cũng vui vẻ ra tận cửa phòng làm việc, niềm nở bắt tay tôi dẫn vào. Trước lúc nghe báo cáo, Anh ân cần hỏi thăm sức khỏe cán bộ và chiến sĩ Cục Tác chiến. Anh nói: “Các đồng chí phải chú ý giữ gìn sức khỏe để ta dứt điểm keo này”. Có hôm anh hỏi: “Các đồng chí làm việc căng thẳng vất vả như vậy, có được bồi dưỡng gì thêm không?”.

Phát biểu trong các cuộc hội nghị của Bộ Chính trị và Thường trực Quân ủy Trung ương, cũng như lúc nghe chúng tôi báo cáo, đồng chí Trường Chinh thường tập trung theo dõi và bao giờ cũng chuẩn bị ý kiến thành đề cương tóm tắt. Anh viết chữ rất to, gạch đầu dòng các ý kiến lớn, một số ý kiến cụ thể. Ý kiến của anh toát lên sự hiểu biết sâu sắc, toàn diện, có bề dày kinh nghiệm phong phú, vững chắc về chiến lược, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật là những bộ môn của nghệ thuật quân sự Việt Nam và cả những vấn đề về đấu tranh quân sự kết hợp đấu tranh chính trị, ngoại giao. Qua nhiều lần nghe anh phát biểu trong các cuộc hội nghị cũng như làm việc riêng với anh, tôi có thể khái quát thành hai điểm cơ bản nổi bật về đồng chí Trường Chinh: Một là, lý luận sâu sắc, ngắn gọn, dễ hiểu, nhuần nhuyễn với thực tiễn rất phong phú, sinh động. Hai là, nắm vững và vận dụng nghệ thuật quân sự truyền thống của tổ tiên, quán triệt sâu sắc nghệ thuật quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kết hợp với tinh hoa của nền quân sự nhân loại.

Tháng 12-1953 tại Việt Bắc, Trung ương Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch bàn kế hoạch mở chiến dịch Điện Biên Phủ (đồng chí Trường Chinh đứng thứ hai bên phải). Ảnh tư liệu

Tôi nhớ rất rõ trong những ngày quân ta đang thắng to ở Buôn Ma Thuột, tôi sang báo cáo và xin ý kiến anh để kịp chuẩn bị cho hội nghị sắp tới của Bộ Chính trị và Thường trực Quân ủy Trung ương. Sau khi nghe báo cáo, anh nói: “Sáng 8-3 vừa rồi, lúc nghe kế hoạch đánh Buôn Ma Thuột, tôi cũng lo vì ta chưa thật tập trung lực lượng cần thiết ngay từ đầu cho trận mở màn. Ta phải nhớ Bác Hồ thường dạy là muốn chắc thắng phải tập trung lực lượng đúng mực, nhất là đối với những trận quyết định”.

Khi lực lượng địch rút khỏi Tây Nguyên theo đường 7, bị quân ta tiêu diệt gọn ở khu vực Cheo Reo-Củng Sơn, theo chỉ thị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tôi sang báo cáo anh Trường Chinh đề nghị cho một bộ phận chủ lực kết hợp với lực lượng tại chỗ, nhanh chóng phát triển xuống phía Đông, giải phóng các tỉnh dọc ven biển miền Trung Trung Bộ... Anh đồng ý và nói: “Đúng là phải thực hiện ngay đòn chia cắt chiến lược bằng một cú “Perséc stratégique” (một mũi giáo chia cắt chiến lược), nhanh chóng cô lập Quân khu 1 và Quân khu 3 của chúng, để rồi lần lượt ta tiêu diệt”.

Chiến dịch Huế-Đà Nẵng toàn thắng, ta nỗ lực tập trung lực lượng nhanh chóng mở chiến dịch giải phóng miền Nam. Ngày 7-4-1975, Thường trực Quân ủy Trung ương điện đôn đốc các đơn vị đang trên đường xốc tới Sài Gòn: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa; tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận giải phóng miền Nam, quyết chiến và quyết thắng”. Nghe báo cáo, đồng chí Trường Chinh hoàn toàn nhất trí và nói thêm: “Đúng lúc này phải nhanh chóng, phải thần tốc, vì thời gian là lực lượng, là sức mạnh, nhưng phải luôn luôn nhớ lời Bác dạy: “Nhanh chóng nhưng không được hấp tấp vội vàng mà quên cơ mưu”.

Hội nghị Bộ Chính trị và Thường trực Quân ủy Trung ương thông qua kế hoạch chiến dịch Hồ Chí Minh. Sau khi nghe báo cáo của Thường trực Quân ủy Trung ương, có ý kiến nói rằng: Lúc này, đẹp nhất là 5 cánh quân dũng mãnh tấn công vào, kết hợp với phía trong đồng loạt nổi dậy… Anh Trường Chinh vui vẻ nói xen vào: “Thế lỡ như phía trong không nổi dậy thì sao?”. Lập tức đồng chí vừa phát biểu bổ sung ngay: “Đồng ý với anh Năm lúc này quyết định là 5 cánh quân của chủ lực ta từ ngoài tấn công vào, tạo điều kiện cho phía trong nổi dậy”.

Đến lượt đồng chí Trường Chinh phát biểu, anh nói: “Có nhiều cuộc khởi nghĩa và chiến tranh bảo vệ, chiến tranh giải phóng của cha ông ta trước đây mang tính nhân dân, nhưng chưa có cuộc chiến tranh nhân dân nào phát triển mạnh mẽ to lớn như cuộc kháng chiến chống Pháp và đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ngày nay. Nguyên nhân chủ yếu, hàng đầu là có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng vĩ đại, của Bác Hồ kính yêu. Nên tấn công quân sự đi đôi với nổi dậy của quần chúng, kết hợp chặt chẽ với nhau rất phong phú, đa dạng, từ thấp đến cao, hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau. Đặc biệt ở giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh, lực lượng cách mạng càng có điều kiện, khả năng phát triển mạnh mẽ cả về chất lượng và số lượng. So sánh lực lượng đã nghiêng hẳn về phía ta, nhất là lực lượng vũ trang tập trung chủ lực. Nhưng cũng phải thấy một thực tế, lực lượng ta mạnh là nói chung, ở trọng điểm quyết định, còn phía sau lưng địch, ở thành phố lớn như Sài Gòn, lực lượng chính trị cũng như vũ trang của ta còn ít hơn địch. Chúng còn đông, còn có trang bị nhưng lại hoang mang cực độ, dễ rơi vào thế “chó cùng cắn giậu”. Vì vậy lúc này tư tưởng chỉ đạo phải rõ ràng, dứt khoát, các binh đoàn chủ lực phải dũng mãnh xốc tới tấn công, vừa nhanh chóng tiêu diệt địch, vừa tạo điều kiện cho phía trong nổi dậy. Còn phía trong nổi dậy đến mức độ nào là tùy tình hình cụ thể. Có vậy mới tránh được tình trạng trông chờ và ỷ lại, ảnh hưởng đến sức mạnh tổng hợp của cuộc tấn công”.

Bộ Chính trị hoàn toàn nhất trí với ý kiến của đồng chí Trường Chinh. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, cùng với thắng lợi của các chiến dịch Nam Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng… đã chứng minh quan điểm chỉ đạo đúng đắn, sáng suốt đó.

Trong các hội nghị Bộ Chính trị và Thường trực Quân ủy Trung ương, chúng tôi thường đặt trước mặt mỗi đồng chí bản báo cáo đánh máy, 5 tờ giấy trắng, một bút bi để tiện theo dõi và ghi chép khi cần thiết, bản báo cáo của ai thì ghi bí danh của người đó: Của đồng chí Lê Duẩn là “Kính gửi anh Ba”, của đồng chí Trường Chinh là “Kính gửi anh Năm”, của đồng chí Phạm Văn Đồng là “Kính gửi anh Tô”… Nhiều hội nghị không thấy anh Trường Chinh nói gì. Nhưng có một lần, anh gọi tôi tới và nói nhỏ: “Đồng chí Đức nhớ tên tôi là Thận. Thận do Bác Hồ đặt cho tôi thời kỳ hoạt động bí mật!”.

Trung tướng, PGS Lê Hữu Đức (Nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến)