Ngày 19-11-1953, bốn người bọn tôi làm ở tờ báo Giải phóng Tây Bắc của Trung đoàn 148, Sư đoàn 316, kéo nhau ra đồi Chẩu, còn gọi là đồi Châu Ún - nơi đóng quân của tiểu đoàn địa phương quân, để chụp ảnh. Bốn người nhưng một người phải bấm máy, nên tấm ảnh mà tôi giữ thì chỉ có 3 người (tính từ trái sang là đồng chí Trịnh Kính- Tổ trưởng tổ biên tập báo, người đứng giữa đội mũ lưới là phóng viên nhiếp ảnh Nguyễn Đức Lai, và người thứ ba là Ngọc Minh - phóng viên viết bài).
 |
Nhóm phóng viên báo Giải phóng Tây Bắc trên đồi Chẩu chiều 19-11-1953. Ảnh tư liệu do nhân vật cung cấp
|
Chụp xong, chúng tôi trở lại “phố” Mường Thanh ăn bún ốc của bà Cả Mùi. Ở cánh đồng Mường Thanh thời ấy, cua, ốc nhiều lắm, sờ đâu cũng thấy ốc, thấy cua.
Ăn xong, chúng tôi về “doanh trại” của Ban Chính trị đóng quân là ngôi nhà sàn của cô Đông, rộng đủ sức cho cả đại đội mắc màn cá nhân mà ngủ đàng hoàng. Cô Đông là đội trưởng đội xòe của “vua” Đèo Văn Long, đã từng vào Huế, Sài Gòn biểu diễn, nên cô nói tiếng Kinh rất sõi. Cũng ở ngôi nhà này, chúng tôi đã tráng phim và chui vào cái cót thóc-thay buồng tối-để in ảnh cỡ 3x4cm.
Sáng hôm sau, chúng tôi chờ lệnh hành quân của Trung đoàn đi chặn địch từ Lai Châu, rút qua Mường Pồn. Riêng bộ phận “tòa soạn” ngoài phương tiện tác nghiệp thì mỗi người được cấp 3 quả lựu đạn “mỏ vịt”.
Cũng chưa kịp chào chia tay với chủ nhà thì có lệnh báo động gấp. Phút đầu thì chỉ có hai cái máy bay Đa-kô-ta lượn hình tròn số 8 dọc thung lũng Mường Thanh. Đến khoảng hơn 8 giờ, hàng đàn Đa-kô-ta lao thấp xuống thả dù. Số dù chúng thả xuống trắng xóa cả trời, không tài nào đếm xuể và trận nhảy dù ồ ạt này ngoài dự kiến của trung đoàn và quân khu.
Thế là trận hỗn chiến diễn ra ác liệt giữa ta và quân nhảy dù Pháp. Chính ủy Hoàng Chà chỉ nắm được non một trung đội. Đồng chí Nguyễn Trí Anh, cán bộ tuyên huấn trung đoàn thì chỉ huy được một tiểu đội, quần nhau quyết liệt với lính da trắng Pháp và bọn Âu Phi.
Tuy bị địch “úp nơm” bất ngờ, lại đông quân số, vũ khí hiện đại hơn ta, nhưng ta có lòng căm thù cao sau chỉnh quân, cải cách ruộng đất, nên các đại đội dẫu đã ở phân tán, lại không có sự chỉ huy của trên, nhưng đều đã tự động tác chiến một cách quả cảm. Từ bản Cò Mỵ, Đại đội 221 xông ra; từ bản Noong Pết, Đại đội 220 xốc lưỡi lê tiến ra trung tâm Mường Thanh; từ bản Hoong Lếch, Đại đội trợ chiến 634 vác súng cối 60mm, 81mm vượt sông Nậm Rốm, nhả đạn vào các chỗ địch đang cụm lại khi tiếp giáp mặt đất…
Cánh đồng Mường Thanh đã diễn ra trận giáp chiến! Quân ta từ chỗ bị động dần dần chuyển sang thế chủ động, nhưng địch đông gấp hai, ba lần; phía ta chỉ có 500 chiến sĩ, súng ống, đạn dược lại có hạn, thương vong cũng tới hàng trăm.
Bộ phận phóng viên chúng tôi ném hết số lựu đạn được phát thì tự động làm tải thương bằng cách cõng, vác thương binh, hoặc để thương binh nằm sấp trên lưng rồi bò từng đoạn một.
Trận đánh không cân sức ấy diễn ra đến gần xế chiều thì tiếng súng thưa dần và đến tối 20-11-1953 thì trung đoàn đã thu được quân về Mường Phăng.
Ngày 21-11-1953, Đại tướng Võ Nguyên Giáp điện khen tinh thần chiến đấu của trung đoàn. Bộ Tổng tham mưu và Quân khu Tây Bắc cho biết, chỉ trong ngày 20-11-1953, địch bị thiệt hại hơn 300 tên.
Sau này, trong cuốn sách: “Điện Biên Phủ trên những nẻo đường chiến thắng” dày 200 trang do Tổ chức Quốc tế các nhà báo (OIJ) xuất bản, nhà báo Tiệp Khắc Mi-lan-xi-ru-trech viết, có đoạn: “… Chỉ trong ngày 20-11-1953, Pháp đã cho 56 chiếc máy bay Đa-kô-ta chở hai đợt quân ném xuống cái lòng chảo Mường Thanh, quân Pháp đã bị đánh ngay từ phút đầu tiên. Tính trung bình, cứ 10 lính nhảy dù ở độ cao 700m thì có một lính bị bắn chết trước khi chạm đất! Quân dù Pháp đã nhảy xuống đúng chỗ bãi tập thường ngày của quân đội Việt Nam!…”. (Tạp chí Văn nghệ Quân đội của ta số tháng 5-1989 đã trích đăng mấy ngàn chữ của quyển sách này).
Khi lần mò về tới địa điểm tập trung Mường Phăng, cả Ban Chính trị chúng tôi mệt lả và không còn màn, chăn, cả cái bàn chải đánh răng cũng theo ba-lô vứt lại trên cánh đồng Điện Biên.
Đói và mệt, song không sao ngủ được vì cứ nhắm mắt lại thì đám cháy của bản Noong Nhai, của bản Noong Pết, của bản Cò Mỵ-nơi đặt bản doanh của Trung đoàn bộ E148 lại đỏ rực, nóng rát trong đầu và tiếng súng cầm canh, tiếng pháo nổ vu vơ vẫn vọng về nơi thu quân của trung đoàn! Anh em trong tòa soạn chúng tôi, không ai nói với ai nhưng đều hiểu rằng thế là thuốc hiện hình, thế là thuốc hãm hình, thế là giấy in ảnh… đã thành… than!
Riêng tôi, sờ túi áo ngực vẫn còn chiếc bút máy Marque Pilot và cái ảnh cỡ 3x4cm chụp hôm qua. Anh Trịnh Kính - Tổ trưởng tổ biên tập báo Giải phóng Tây Bắc - bảo tôi:
- Mày cố giữ lấy cái ảnh này, tao tin rằng nó sẽ là một kỷ vật của Điện Biên! Một kỷ vật thiêng liêng của cuộc kháng chiến chống Pháp!
Anh Trịnh Kính ơi! Khi tôi còn đang viết dở bài báo này thì 20 giờ đêm 6-4-2010, thằng con trai trưởng của tôi, giờ là tiến sĩ hóa học, đại tá quân đội, nó gọi điện cho tôi bảo rằng: Mẹ và con muốn đến thăm các con cháu ông Trịnh Kính, các con cháu và ông Đức Lai!
Tôi bỗng chảy nước mắt vì tình cảm cao đẹp của vợ con tôi đối với một số đồng đội rất thân thiết của tôi và tôi hứa sẽ đưa vợ con đến thăm con, cháu ông Trịnh Kính, rồi xuống Nam Định thăm ông Nguyễn Đức Lai cùng con cháu của ông ấy. Tôi dự tính: Khi thắp nhang ở nhà anh con trai trưởng ông Trịnh Kính, tôi sẽ khấn rằng:
- Anh Trịnh Kính ơi! Lời anh dặn tôi đêm 20-11-1953 ở núi Mường Phăng đã 56 năm trôi qua, song tôi vẫn giữ được tấm ảnh ấy cho đến nay, để nhớ về một thời cầm súng và cầm bút không thể nào quên giữa lòng chảo Điện Biên!
NGỌC MINH