Chùa Bồ Đề xưa đã được ghi trong sách lịch sử nước nhà, nơi đã từng đặt Đại bản doanh của Bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn, do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo, chỉ huy các cánh quân vây hãm, đánh thành và giải phóng thành Đông Quan..
Bồ Đề tên chữ là “Thiên Sơn Tự” hay “Thiên Sơn Cổ tích tự”, chùa nằm ngay cạnh bờ Bắc sông Hồng, gần cầu Chương Dương, thuộc phường Bồ Đề, quận Long Biên, Hà Nội. Theo “Bắc Ninh tỉnh chí” chùa trước thuộc thôn Phú Hữu, xã Phú Viện, huyện Gia Lâm. Thời Lê Sơ, Gia Lâm thuộc phủ Thuận An, Kinh Bắc. Chùa xưa nằm trên đất cao gọi là núi trời, tên chữ là Thiên Sơn, tên chùa đặt theo tên gò đất.
 |
Chùa Bồ Đề nay là điểm đến, thu hút nhiều du khách trong nước và khách du lịch quốc tế về vãn cảnh.
|
Chùa được xây khoảng từ cuối đời nhà Trần. Tháng Giêng năm Đinh Mùi (1427), Lê Lợi dời bản doanh đóng ở Tây Phù Liệt (Thanh Trì) về đóng giữ ở đây, đã có hai cây Bồ Đề (cao từ 10 đến 12m), vì vậy mới gọi là Dinh Bồ Đề. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư” chép:
“Năm Đinh Mùi, mùa xuân tháng Giêng, Vua tiến quân đến bờ Bắc sông Lô (thời thuộc Minh 1407-1427, sông Lô là sông Hồng) đóng đối mặt với thành Đông Quan; sai Thiếu úy Lê Khả giữ cửa Đông, Tư đồ Đinh Lễ giữ cửa Nam, Thái giám Lê Chửng đem hai vệ thiết đội giữ cửa Bắc, vây hãm thành Đông Quan. Vòng ngoài có các đạo quân ở Cảo Đông (Xuân Đỉnh, Từ Liêm), bãi Sa Đội (Mễ Trì) và Tây Phù Liệt cùng phối hợp với đại quân ở dinh Bồ Đề, sẵn sàng tiếp ứng với nhau, làm thành thế trận bao vây, liên kết chặt chẽ nhiều tầng. Vua dựng lầu nhiều tầng ở Dinh Bồ Đề trên bờ sông Lô (bấy giờ có hai cây Bồ Đề ở giữa nên gọi là Dinh Bồ Đề), cao bằng tháp Báo Thiên (80m). Hằng ngày ngự trên lầu để trông vào thành xem giặc làm gì, cho Trãi ngồi hầu ở tầng thứ hai để vâng chỉ, thảo các thư từ đi lại...” (trang 40, tập 2, NXB Văn hóa-2006).
“Đại Nam nhất thống chí” chép: “Dinh cũ Bồ Đề ở phía sông Lô thuộc địa phận thôn Phú Viên, xã Lâm Hạ, huyện Gia Lâm. Trước Lê Thái Tổ chống cự với tướng nhà Minh là Vương Thông ở đây. Nhà vua sai đắp núi đất cao ngang với núi Báo Thiên, hằng ngày ngồi trên lầu quan sát hành động giặc...”. Chuyện xưa kể lại, nghe tin Lê Lợi đóng đại bản doanh ở Bồ Đề, nhân dân vùng kinh lộ và các vùng phụ cận đem tiền, gạo, thịt đến chúc mừng và khao thưởng nghĩa quân. Sách “Lam Sơn thực lục” chép: “Lê Lợi và nghĩa quân đóng quân ở Bồ Đề, các tù trưởng ở biên trấn tấp nập đến cửa dinh tình nguyện đầu quân... các quan đại thần, tướng lĩnh cho tới quân sĩ, lập được công đều được khen thưởng bằng tước, chức, tiền bạc, vàng, lụa. Lê Lợi cũng xử phạt nghiêm khắc các quan, tướng lĩnh đến quân và người dân vi phạm vào các điều quân luật”.
Tại Dinh Bồ Đề thời xưa (năm 1427-1428), Lê Lợi và Nguyễn Trãi chỉ huy cuộc bao vây dụ hàng thành Đông Quan. Nguyễn Trãi nhiều lần gửi thư cho Vương Thông và nhiều tướng giặc Minh khác để dụ hàng. Trong những bức thư địch vận, ông dùng lời lẽ sắc sảo, khôn khéo, bầy ra cái thua và cái hại của đối phương, cái mạnh của đội quân khởi nghĩa, nhưng vẫn mong hòa giải để tránh tổn thất cho cả hai bên. Tham gia chỉ đạo cuộc kháng chiến, Nguyễn Trãi đã góp phần trí tuệ trong nghệ thuật quân sự “Vừa đánh vừa đàm”. Về tư tưởng quân sự, ông dùng chiến thuật: “Lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”, mai phục, bất ngờ, kết hợp quân sự với ngoại giao, kết hợp đánh thành và đánh vào lòng người. Trong bài “Bình Ngô đại cáo” Nguyễn Trãi đã nói rõ: “... Lấy ít địch nhiều, hoặc đánh giặc chỗ sơ hở/ Lấy yếu chống mạnh, hoặc đặt phục lúc không ngờ/ Cuối cùng, lấy đại nghĩa mà thắng hung tàn/ Lấy chí nhân mà thay cường bạo...”.
Theo bia “Trùng cấu Thiên Sơn Tự” (bài minh về việc tu sửa chùa Thiên Sơn) do Nguyễn Lễ (đỗ đệ tam giám đồng tiến sĩ làm quan thời nhà Mạc, từng đi sứ sang nhà Minh...) soạn thảo năm Hoàng Định 15 (năm 1614), nay còn lưu giữ tại chùa, thì trong lần trùng tu này, chùa làm trên nền chùa cũ. Nhưng do chùa và dinh nằm ở ngoại vi đê sông Hồng, hằng năm bị lũ lụt tàn phá sạt lở, chỉ biết nội dung qua văn bia cổ chép lại: “Bồ Đề luôn luôn là nơi khách buôn tụ tập, xe ngựa dập dìu, quan khách thường lai vãng qua đây, phía Tây trông ra sông Nhị Hà, thuyền bè nhộn nhịp, vải lụa phơi bầy, đế kinh lai kiến hội ở chỗ này...”. Bia kể lại quá trình xây dựng với quy mô lớn nhiều lớp nhà, trong đó có nhà thờ Phật, cửa tam quan, hai dãy hành lang...
Vào các thế kỷ XV, XVI và XVII, chùa trở lên đông vui, có phố xá, đình chùa, có bến Bồ Đề bên dòng sông Hồng là cửa ngõ của kinh đô phía Bắc, là một trong bát cảnh (tám cảnh) đẹp của kinh đô Thăng Long. Chùa được ghi vào dấu tích trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, nơi gợi nhớ lại những sự kiện lịch sử quan trọng, nơi đặt Đại bản doanh Bộ chỉ huy khởi nghĩa Lam Sơn, chỉ đạo cuộc kháng chiến đánh quân Minh, vây hãm thành Đông Quan, chỉ huy đánh chặn viện binh nhà Minh ở biên giới phía Bắc.
Bài và ảnh: HOÀNG HIỂN