QĐND - 6. Vẫn thường kể cho con cháu nghe…

Ông Nguyễn Văn Nhự sinh năm 1927 tại xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng; hiện đang sinh sống tại nguyên quán trên. Trước năm 1975, ông là viên chức thuộc Ty Khí tượng-Thủy văn Trung Trung Bộ, có trụ sở đóng tại Đà Nẵng. Năm 1969, ông Nhự cùng 6 người khác được cử ra Hoàng Sa công tác. Công việc của ông Nguyễn Văn Nhự ở Trạm Khí tượng-Thủy văn Hoàng Sa là điều chế khí Hydro để bơm vào 2 quả cầu thả lên trời đo đạc các số liệu về thời tiết, khí hậu… thông báo về Ty Khí tượng-Thủy văn Trung Trung Bộ ở TP Đà Nẵng. Trong bài hồi tưởng viết ngày 4-9-2009 về chuyến đi công tác trên đây, ông Nhự kể:

Ông Phạm Khôi (bìa trái) kể chuyện Hoàng Sa.

“Chúng tôi ra đảo Hoàng Sa bằng tàu thủy chở lương thực và người. Thời gian đi 12 giờ trưa hôm trước đến 12 giờ trưa hôm sau tàu đã cập đảo Hoàng Sa. Bước xuống tàu, lên đảo tôi thấy có 2 đường ray sắt chạy vào đến khu nhà ở và có hai chiếc xe gon để vận chuyển lương thực, thực phẩm nhập vào kho. Toàn bộ đường ray dài chừng 1 cây số. Lên đảo nghỉ ngơi, tổ trưởng phân chia phòng ngủ cho từng cá nhân. Tổ trưởng cho nghỉ bồi dưỡng sức khỏe 2 ngày rồi bắt đầu làm việc. Buổi sáng 6 giờ đánh thức, 6 giờ 30 phút ăn sáng, 7 giờ làm hơi bơm vào bong bóng, có một nhân viên đem máy ngắm ra đặt tại chỗ. Tôi thả bong bóng lên trời, chuông reo ghi số…

Giữa đảo Hoàng Sa ngày ấy có một cái nhà 2 tầng, một khẩu súng đại bác để trên tầng hai, nòng súng chĩa về hướng đông của đảo. Cạnh đó là 4 cái nhà cấp 4 xây tường lợp ngói. Mỗi cái nhà cấp 4 đều có hầm chứa nước mưa để dùng quanh năm. Ở giữa đảo có một cái giếng cũ, miệng giếng rộng chừng mét rưỡi. Trên mặt đảo là một rừng cây rậm, thứ cây thân nhỏ và cao lút đầu người. Phía nam của đảo có một cái miếu xây hướng mặt ra biển. Cái miếu xây tường lợp ngói, bề cao của tường khoảng 3 mét, chiều dài chừng 3 mét rưỡi, chiều ngang chừng 2 mét rưỡi. Trong miếu thờ 1 cái tượng phật chính giữa, bên tả thờ một tượng quan ông. Trước tượng phật có bàn nhỏ trình bày những quyển kinh, bên tả một cái chuông, bên hữu một cái mõ, hằng ngày nhân viên khí tượng và binh lính đều lên miếu thắp hương và tụng kinh. Trước miếu có tảng đá, dài rộng bằng cái sân gạch ở quê. Chiều chiều, nhân viên khí tượng và anh em binh lính ra ngồi chơi, xem cảnh trước tảng đá và 2 bên các thứ cá vào chầu trước miếu… Nghe nói có lần thấy cá vào chầu, có hai người lính rủ nhau về trại lấy lựu đạn ra ném bắt cá. Một người đi chưa tới chỗ bắn cá đã rút chốt quả lựu đạn, người đi phía sau bảo ném xuống, anh lính vẫn cầm quả lựu đạn trơ trơ đứng ngó. Lưu đạn nổ khiến anh lính bị tiêu xác, còn anh phía sau bị thương nhẹ. Từ đó về sau, không ai dám làm gì đàn cá và ăn nói bậy bạ trước miếu nữa.

Đảo Hoàng Sa là một hòn đảo đẹp của nước Việt Nam. Nhân dân ta thường được nghe tiếng đảo Hoàng Sa nhưng ít người được tận mắt nhìn thấy cảnh vật trên đảo. Điều đó hiện nay lại càng khó vì từ đầu năm 1974, đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm đóng. Tôi tự hào là nhân viên làm việc tại Trung tâm Khí tượng Đà Nẵng đã có thời gian phục vụ tại đảo Hoàng Sa. Tôi vẫn thường kể lại để con cháu mai sau được biết…".

Bút tích hồi ký của ông Lê Lan. Ảnh: Thiết Thạch

7. Mong một lần trở lại!

Ông Phạm Khôi sinh năm 1942, hiện nay trú tại số nhà 128/5 đường Quang Trung, quận Hải Châu, TP Đà Nẵng. Trước năm 1975, ông tham gia lực lượng địa phương quân thuộc Tiểu khu Quảng Nam. Cuối năm 1969, ông Khôi nhận “Sự vụ lệnh” ra công tác ở Hoàng Sa. Tháng 4-1970, ông trở về đất liền, mang theo nhiều kỷ niệm và kỷ vật Hoàng Sa, trong đó có 2 con ốc hoa rất đẹp. Vừa qua, một trong hai con ốc ấy được ông tặng cho phòng trưng bày những tư liệu lịch sử Hoàng Sa của UBND huyện Trường Sa. Trong hồi ký “Mong một lần trở lại” viết tháng 8-2009, ông Phạm Khôi kể:

“Tôi nhớ như in ngày tôi ra Hoàng Sa là ngày bà con ta đưa ông Táo về trời vào tháng Chạp năm 1969. Lúc đó tôi rất hăm hở, háo hức vì mong muốn được khám phá và gìn giữ vùng lãnh thổ thiêng liêng của đất nước giữa biển khơi.

Đoàn chúng tôi gồm ba mươi người, chúng tôi xuất phát từ cảng Đà Nẵng khoảng 15 giờ chiều và ra đến đảo khoảng 9 giờ sáng hôm sau. Khi tàu cập bến vào cầu cảng ở Hoàng Sa, chúng tôi đi vào đảo bằng một đoạn đường bê tông dài khoảng 50 mét, sau đó là đi trên con đường đắp bằng đá san hô. Không khí lúc đó rất trong lành, mát mẻ, làm chúng tôi rất khoan khoái. Đi một lúc, nhìn ra phía Bắc thấy một nhà thờ công giáo chắc đã được xây dựng khá lâu, phía Nam đối diện nhà thờ là nhà của bộ chỉ huy. Đi khoảng vài trăm mét nữa là đến nhà ở của chúng tôi.

Phía trước nhà của chúng tôi là 1 giếng nước ngọt, nghe nói do vua Gia Long cho xây dựng. Nhà của anh em khí tượng cũng ở gần đó. Có thể nói nơi đây là vùng đất phong cảnh hữu tình, thoáng mát và khí hậu ôn hòa. Tôi mới ra nên chưa gặp bão khi nào, nhưng nghe những người đi trước kể lại thì bão ở đây rất là dữ, khi đó phải nằm xuống, nắm chặt lấy cỏ. Vùng đất này chỉ trồng dương liễu và cây nhàu, rất khó có thể trồng được loại cây rau quả nào. Bên bãi trồng cây dương liễu có một cái miếu, có tượng đồng đen và xung quanh có khoảng 25 ngôi mộ được đắp bằng đất. Người trên đảo nói miếu đó rất linh thiêng. Nghe đâu năm 1968 có ông thuyền trưởng định đưa tượng đồng đen về chùa ở Đà Nẵng để thờ, nhưng khi chuẩn bị vào cảng thì chiếc thuyền cứ xoay vòng. Ông thuyền trưởng phải đem tượng trở lại miếu. Năm đó tôi ăn Tết ở ngoài đảo, nên sáng Mồng Một tôi ra miếu thắp hương…

Ở ngoài đảo sợ nhất là cảnh thiếu nước, chúng tôi sử dụng nước mưa, được chứa ở các bể ngầm ở xung quanh nhà khí tượng. Khi tôi sống ở trên đảo thì chứng kiến 3 lần bị thiếu nước, mà mỗi lần kéo dài khoảng 10 ngày. Khát quá nên chúng tôi lấy nước giếng để dùng, nhưng nước giếng chỉ uống được khi vừa đun xong còn nóng, để nguội thì rất khó uống. Uống nước giếng liên tục 3 ngày sẽ bị đau bụng, nhưng thuốc men lại không có, chỉ biết dùng đường và sữa để chữa bệnh khi đau bụng mà thôi.

Ở ngoài đảo, thức ăn chủ yếu là lương thực mang theo và đánh bắt hải sản ăn thêm. Nhiệm vụ của chúng tôi là thay phiên nhau canh gác để giữ đảo nên khi không có phiên canh gác thì chúng tôi có nhiều thời gian để đánh bắt cá, câu mực và bắt ốc. Cứ mỗi khi chiều xuống, anh em chúng tôi thường đi bắt cá, câu mực và lượm ốc... đem về làm thức ăn, nếu nhiều quá thì phơi khô làm quà cho bà con ở nơi quê nhà. Cứ đến ngày rằm hay Mồng Một, nước biển rút cạn ra ngoài khơi khoảng 1 cây số, chúng tôi chỉ cần lội bộ ra là tha hồ bắt cá, mực và các loại ốc.

Khi màn đêm buông xuống, anh em chúng tôi xúm lại bên nhau để nghe tin tức quê nhà qua các kênh Đài Phát thanh Quảng Ngãi, Huế, đôi khi nghe lén cả đài Hà Nội bằng cái radio nhỏ xíu. Cuộc sống muôn vàn khó khăn nhưng vì nhiệm vụ bảo vệ đảo nên mọi người đều ra sức cố gắng vượt qua. Sau này trở lại đất liền, khi nghe tin đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc chiếm đóng, tôi bàng hoàng đau buồn. Đây là vùng đất thuộc lãnh thổ của nước Việt Nam mình sao lại bị nước ngoài chiếm giữ một cách vô lý như vậy. Bây giờ tôi chỉ mong muốn, ai cũng phải ghi nhớ Hoàng Sa là mảnh đất được ông cha ta khai phá từ xa xưa. "Hoàng Sa đã, đang và mãi mãi là của Việt Nam chúng ta". Ước gì tôi được ra đảo lại một lần nữa thì có chết tôi cũng thỏa nguyện”.

Doanh trại quân đội Việt Nam cộng hòa trên đảo Hoàng Sa, năm 1959. Ảnh tư liệu

8. Hai lần ra giữ đảo

Ông Lê Lan sinh năm 1952 ở xã Điện Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; hiện sống tại tổ 13, khối phố 3, phường Sơn Phong, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Trước năm 1975, ông là y tá trong lực lượng địa phương quân thuộc Tiểu khu Quảng Nam, từng 2 lần được điều động ra Hoàng Sa chăm sóc y tế cho binh sĩ đồn trú trên đảo. Đầu năm 1974, Trung Quốc tấn công đánh chiếm trái phép Hoàng Sa, ông bị địch bắt đưa về Trại thu dung ở Quảng Châu-Trung Quốc, sau đó được trao trả cho chính quyền Sài Gòn. Trong hồi ký viết ngày 20-5-2010, ông Lê Lan nhớ lại:

"Lần đầu tiên tôi được ra công tác tại đảo Hoàng Sa giữa mùa thu năm 1971. Năm ấy tôi 19 tuổi. Chúng tôi lên tàu ở cảng Tiên Sa, Đà Nẵng khoảng 16 giờ chiều ngày hôm trước. Tàu chạy luôn đêm. Đến Hoàng Sa 6-7 giờ sáng hôm sau. Trong những người lên đảo đợt đó có lẽ tôi là trẻ nhất có mặt ở nơi đây. Tôi nhớ rõ đó là đợt thay quân thứ 45.

Người đầu tiên tôi gặp trên đảo là anh Tạ Song, y tá của đợt thứ 44. Mỗi đợt công tác trên đảo là 3 tháng, nhưng cũng có đợt lâu hơn thế vì biển động mạnh, tàu không ra được để đổi quân. Tôi ra đảo với nhiệm vụ là y tá, chữa và cấp thuốc cho anh em mắc những chứng bệnh thông thường, còn bệnh nặng thì báo với đảo trưởng xin tàu chở về đất liền.

Anh Hai Song về đất liền có để lại cho tôi một ít dụng cụ câu cá. Ban đêm thì câu ở cầu tàu, ban ngày thì lội ra bãi san hô để câu. Đồ ăn chúng tôi đã chuẩn bị 3 tháng rồi, còn gạo thì ở kho, sự ăn uống rất đầy đủ, thêm vào đó ở đảo không khí trong lành mát mẻ nên ăn được nhiều, ai cũng lên cân. Đợt ấy có cơn bão lớn đi ngang qua đảo, biển động mạnh, sóng cao như mái nhà đổ ầm ầm, gió hú như thú dữ, nhưng trên đảo không thiệt hại gì nhiều, vì toàn là nhà đúc bê tông cả, chứng tỏ tiền nhân đã có kinh nghiệm sinh sống ở Trường Sa.

Lần thứ 2 tôi được ra đảo vào tháng 10-1973, ấy là đợt thay quân lần thứ 54 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Lần đi này tôi đã có kinh nghiệm hơn vì sống ở đây 3 tháng rồi nên cuộc sống vui vẻ, thoải mái hơn nhiều. Lẽ ra sau đợt công tác này tôi về sẽ cưới vợ, nhưng còn khoảng 1 tuần nữa là về đất liền thì Hoàng Sa bị Trung Quốc đem tàu chiến, binh lính ra đánh chiếm. Mặc dù chúng tôi đã quyết tâm chiến đấu giữ lấy đảo, nhưng địch đông quá, cùng nhiều tàu chiến, súng lớn. Cuối cùng họ chiếm được Hoàng Sa. Tôi cùng 32 người khác bị bắt, đưa về đảo Hải Nam, khi đó có thêm 21 người lính hải quân bị bắt ở đảo khác cũng bị tập trung về. Họ đưa chúng tôi về cảng Quảng Châu, sau đó đưa chúng tôi về trại thu dung tù binh ở Quảng Châu bằng ô tô. Bị giam ở đây khoảng một tháng, chúng tôi được trao trả cho tổ chức Hồng thập tự quốc tế ở biên giới Thẩm Quyến và Hồng Công. Hồng thập tự quốc tế trả chúng tôi cho chính quyền Sài Gòn.

Đã gần 40 năm trôi qua, nhưng tôi vẫn nhớ như in quang cảnh trên đảo. Nhớ những ngôi nhà nguyện, miếu Bà, cầu tàu, giếng nước và đặc biệt là khu nghĩa trang khoảng 50-60 ngôi mộ những người đã sống và bảo vệ đảo, bảo vệ chủ quyền cho đất nước và bị chết tại đây, thịt xương hòa tan vào đất đá Hoàng Sa…".
(Còn nữa)    

TẦM THƯ (lược trích)