 |
| Đại tá Bùi Trường Sơn. |
Có lúc, tôi cứ nghĩ, chẳng đâu kiếm tiền dễ như làm than, cứ đào lên đem bán là… xong! Ấy vậy mà Đại tá Phạm Ngọc Tuyển, Tổng giám đốc Tổng công ty than Đông Bắc đã phê phán: “Đổ mồ hôi, đổ máu và còn phải “thức trắng” mới có được “vàng đen”. Anh Tuyển giới thiệu cho tôi một “dẫn chứng”: Đại tá Bùi Trường Sơn, Phó tổng giám đốc, người vừa nhận danh hiệu Doanh nhân tiêu biểu toàn quân năm 2009.
Bùi Trường Sơn luôn từ chối: “Nói về than, nên viết về những người thợ”. Phải đến thẳng phòng làm việc của anh khi anh vừa kết thúc một chuyến công tác từ Nam ra Bắc để dự giao ban, tôi mới có dịp “cận cảnh” vị chỉ huy này…
Năm 1980, Sơn vừa tốt nghiệp cấp 3, tạm biệt khu phố nhỏ ở thị xã Hải Dương để vào bộ đội. Sau thời gian huấn luyện ở Trung đoàn 273, Đoàn 433 (Quân khu 3), Sơn nổi tiếng là một chiến sĩ khỏe với thành tích trong nhiều môn thể dục, thể thao quân sự và được điều về công tác tại Ban Doanh trại của đơn vị. Lúc đó, Sơn không hề nghĩ rằng công việc gắn bó với doanh trại, xây dựng lại như một “duyên nợ” sẽ theo đuổi anh suốt cuộc đời binh nghiệp…
Năm 1997, khi Công ty Đông Bắc mở chi nhánh mới ở Thành phố Hồ Chí Minh, Sơn được điều động về làm Bí thư chi bộ chi nhánh. Từ làm quản lý đầu tư xây dựng nay chuyển sang làm… công tác Đảng, vừa làm, vừa học hỏi, anh có nhiều đóng góp cho chi nhánh. Lúc ấy, ông Nguyễn Văn Chỉnh, Giám đốc Công ty Đông Bắc là người luôn chủ trương đổi mới, mở rộng hướng làm ăn và khích lệ những đột phá của cấp dưới, trong đó có những đề xuất táo bạo của Sơn.
Tháng 8-1998, trên chủ trương mở thêm chi nhánh miền Trung. Sơn được giao nhiệm vụ đi thâm nhập thị trường miền Trung. Anh đã nhìn ra tiềm năng đầy hứa hẹn ở vùng đất nghèo khó này. Tuy nhiên, lúc này, giao thông đường bộ còn khó khăn, 100% than phải vận chuyển bằng đường thủy mà kho cảng, bến bãi rất thiếu. Công ty lại chưa có cảng để cho tàu có trọng tải từ 500 đến 1.500 tấn vào nhận hàng. Có lúc đối tác đang cần hàng mà không tài nào thuê được cảng. Yêu cầu Đông Bắc phải có một bến cảng riêng ngày càng hiện hữu!
Sau nhiều ngày lặn lội, xẻ dọc các vùng duyên hải, anh đã tìm ra khu vực Khe Dây ở bờ phải sông Mông Dương (Cửa Ông - Cẩm Phả). Anh đề xuất với cấp trên ý tưởng xây dựng cảng và được đồng ý. Chỉ trong vòng 5 tháng, vừa làm, vừa khai thác, cảng nội thủy hoàn thành, giúp cho Đông Bắc cũng như nhiều đơn vị khác được “mở toang” một cánh cửa mới. Tại đây, chỉ riêng sáng kiến của anh trong việc chỉ đạo lấy đất quây bờ hút cát tạo thành luồng sâu đã tiết kiệm được cho công ty tới 500 triệu đồng vào thời điểm ấy. Tiếp đó, anh còn đề xuất làm con đường vào Cọc Sáu và cảng Khe Dây có ý nghĩa rất lớn đối với vùng than Mông Dương và Cẩm Phả, đồng thời “nâng tầm” hoạt động của cảng.
Năm 2000, chi nhánh miền Trung được sáp nhập với Xí nghiệp Cảng, anh được điều về làm phó giám đốc xí nghiệp. Trở lại Quảng Ninh, Sơn lóe lên một ý tưởng mới. Anh nhận thấy trong toàn bộ ngành than, khối lượng xây dựng cơ bản rất lớn mà thiếu một đơn vị xây lắp đủ mạnh, phải đi thuê “người ngoài”. Anh mạnh dạn đề xuất và ngày 1-11-2001, Xí nghiệp Xây lắp và Thương mại thuộc Công ty Đông Bắc được thành lập, sau đổi tên thành Xí nghiệp Xây dựng và Kinh doanh Tổng hợp. Bùi Trường Sơn được bổ nhiệm làm Giám đốc. Đến ngày 1-11-2009, xí nghiệp được trên nâng cấp thành công ty.
Thượng tá Vũ Việt Tiến, Phó giám đốc Công ty có mặt tại xí nghiệp từ những ngày đầu thành lập nhớ lại: “Đơn vị mới thành lập, chỉ có mấy gian nhà cấp 4, vốn liếng lại ít ỏi. Nhờ anh Sơn tạo thị trường, xây dựng thương hiệu, coi trọng chất lượng, uy tín hơn lợi nhuận trước mắt, ban đầu đơn vị chỉ làm những công trình nhà cấp 4, sau vươn ra làm cầu đường và nhiều công trình khác…”.
Sơn xông xáo cho việc đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng nhiệt điện. Hàng loạt nhà máy nhiệt điện như Sơn Động (Bắc Giang), Na Dương (Lạng Sơn), Cao Ngạn (Thái Nguyên), Cẩm Phả, Mạo Khê (Quảng Ninh)… với sự điều hành tích cực của anh đã giúp định hình thương hiệu Đông Bắc trong “làng nhiệt điện”. Nhiều hạng mục đòi hỏi kỹ thuật cao, có giám sát tư vấn nước ngoài, cái khó, cái cần không chỉ ở sự điều hành mà còn ở vai trò tìm kiếm dự án, đề xuất, tạo niềm tin để cấp trên và đối tác ghi nhận, khi mà nhiều dự án chỉ có 20-30% phần việc dành cho nhà thầu Việt Nam! Đặc biệt, năm 2009, công ty của Sơn được giao nhiệm vụ chủ trì thi công dự án san gạt mặt bằng và đê chắn sóng Trung tâm Điện lực Vĩnh Tân (Tuy Phong – Bình Thuận) với tổng giá trị gói thầu lên tới 1.400 tỷ đồng. Trước đó, dự án này từng được đối tác nước ngoài bỏ thầu với giá đắt gấp 50%, “độ khó” và chiều dài đê còn lớn hơn cả nhà máy lọc dầu Dung Quất.
Anh còn là một chỉ huy giàu sáng kiến, đã cùng tập thể Phòng Tài chính soạn thảo phần mềm vật tư, áp dụng trong toàn Tổng công ty; cải tiến thiết bị phục vụ các đơn vị sản xuất hầm lò mang tính “lưỡng dụng” được Tổng cục Chính trị tặng Bằng khen; chế tạo đầm rung bê tông trong thi công cầu đường và các dự án điện; sáng kiến thả rọ đá ngầm xây kè… Chỉ riêng những sáng kiến trên, mỗi năm đã làm lợi cho công ty hơn 500 triệu đồng…
Bùi Trường Sơn đã được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua toàn quốc, Doanh nhân tiêu biểu toàn quân năm 2009. Những việc anh làm được đã tạo dấu ấn mạnh mẽ với cả ngành than, in dấu chân thầm lặng của người “mở đường”…
Bài và ảnh: HOÀNG NGÂN