 |
Trong lễ viếng và truy điệu tại Đà Nẵng; từ bên phải: ông Nhật Thành, Bí thư Quận ủy Sơn Trà và bà Huỳnh Thị Chim, mẹ của liệt sĩ Trần Duy Chiến |
“Mẹ thân yêu của con ơi! Mẹ đừng buồn, đừng nhớ và đừng khóc nghe mẹ. Ngày mai đây, khi dân tộc mình đã thoát khỏi vòng điêu linh chết chóc, đất nước mình thoát khỏi nạn ngoại xâm. Lúc đó, con sẽ về bên mẹ, để mẹ được nhìn kỹ đứa con của mẹ sinh ra”.
(Trích nhật ký của liệt sĩ Trần Duy Chiến)
Sáng sớm ngày 20-7-1980, trên đường đi truy quét tàn quân Pôn-pốt tại vùng biên giới phía tây Cam-pu-chia, tiểu đội của Trần Duy Chiến đã không may sa vào ổ phục kích của địch. Một quả mìn địch gài trên đường bất ngờ phát nổ đã khiến một đồng đội đi sau Chiến bị thương vào đầu, còn anh bị trọng thương, nát chân phải. Đồng đội kể lại: Trước khi kiệt sức vì mất nhiều máu, Chiến còn bắn hết một băng AK về phía bọn địch, rồi mới gục xuống. Khi lực lượng tiếp viện của ta lên tới nơi thì Trần Duy Chiến đã hy sinh. Khuôn mặt của anh bị bọn địch bắn nát, không thể nhận ra.
Anh Nguyễn Văn Chính, người bạn đồng hương thân thiết nhất, cùng đại đội, kể lại: Chính anh là người đã trực tiếp vuốt mắt cho Chiến. Mấy ngày sau, khi chiếc xe chở thi hài Chiến và một số liệt sĩ khác về gần tới Pai-lin lại bị trúng mìn chống tăng lần nữa. Xe cháy và hỏng hết. Thêm một cán bộ của ta hy sinh. Như thế, có thể nói Trần Duy Chiến đã hy sinh tới hai lần!
27 năm trước, vào đúng ngày Trần Duy Chiến hy sinh, đồng đội phát hiện trong ba lô di vật của anh có một cuốn sổ bìa xanh, đã ghi chép gần kín, Tháng 12-2005, tôi đã có vinh dự được biên soạn, đặt tên và viết lời tựa cho cuốn nhật ký của liệt sĩ Trần Duy Chiến, một người con của quê hương Quảng Nam - Đà Nẵng anh hùng. Cho đến nay, Tây tiến viễn chinh (NXB Hội Nhà văn-2005) vẫn là tác phẩm duy nhất trong tủ sách Mãi mãi tuổi hai mươi viết về cuộc chiến đấu vô cùng gian khổ, nhiều mất mát, hy sinh của quân tình nguyện Việt Nam tại Cam-pu-chia và Trần Duy Chiến cũng là tác giả duy nhất sinh ra và lớn lên tại miền Nam, vinh dự được góp mặt trong bộ sách Nhật ký thời chiến Việt Nam cùng các tác giả nổi tiếng khác như Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm,...
Trước đó, gia đình liệt sĩ Trần Duy Chiến chỉ nhận được thông tin: Hài cốt của anh được di dời từ Cam-pu-chia về nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Sông Bé (cũ), nay là nghĩa trang liệt sĩ Bình Dương. Cuối tháng 4-2007, được sự ủng hộ giúp đỡ của chính quyền địa phương, mà trực tiếp là đồng chí Nhật Thành, Bí thư Quận ủy Sơn Trà (Đà Nẵng), tôi được gia đình liệt sĩ Trần Duy Chiến mời tham gia đoàn đi bốc mộ anh. Đại tá Nguyễn Văn Hồng, nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 309, nguyên Phó tư lệnh Quân đoàn 4, người chỉ huy cao cấp của anh lính Trần Duy Chiến năm xưa, đã nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi làm các thủ tục hành chính cần thiết với phòng Chính sách Quân khu 7, với Sở Lao động-Thương binh và Xã hội tỉnh Bình Dương. Sau đó, ông trực tiếp dùng xe riêng đưa chúng tôi đến nghĩa trang...
Theo ông Trần Nguyên Thanh Quyện, Trưởng ban quản lý nghĩa trang Bình Dương: nghĩa trang này hiện có hơn 5.000 mộ liệt sĩ, khoảng 90% số đó được đưa về từ chiến trường Cam-pu-chia. Riêng số liệt sĩ là con em của quê hương Quảng Nam-Đà Nẵng có 189 mộ, được chôn ở khu bên phải (đi từ cổng vào).
Ngồi cạnh mộ Trần Duy Chiến, đại tá Nguyễn Văn Hồng kể trong nước mắt: Chiến trường Cam-pu-chia hồi ấy ác liệt lắm. Trong 10 năm, đơn vị ông đã hy sinh khoảng gần một vạn chiến sĩ, chủ yếu chết vì mìn. Xác anh em mình được đưa về liên tục, chôn gần kín cánh đồng phía nam sân bay Bát-đom-boong. Hầu hết các đơn vị cơ sở đều thiếu biên chế, phải bổ sung quân liên tục. Xuyên suốt nhật ký của Trần Duy Chiến là nỗi nhớ quê hương da diết đến khắc khoải của những người đi xa. Nhưng những trang hồi ức xúc động và hay nhất có trong cuốn nhật ký này chính là những trang anh viết về mẹ. Người mẹ luôn là nguồn cảm hứng bất tận của anh-nơi anh muốn chia sẻ những cảm xúc thật của lòng mình nhiều nhất: Mẹ kính yêu! Rồi mai đây trên vạn nẻo đường đất nước, lúc đứng bên lề biên giới, lúc ngoài biển khơi, lúc trên hải đảo xa xôi, lúc đứng trước mặt quân thù. Hay lúc con gục xuống trên mảnh đất thân yêu của Tổ quốc... con đều thầm gọi tên mẹ. Lúc đó, mẹ sẽ hiện ra trước mặt con như một bà tiên hiền dịu, an ủi con, khuyên nhủ con…
Tôi không vội vàng khi khẳng định rằng: nếu như không hy sinh, rất có thể Trần Duy Chiến sẽ trở thành một nhà thơ tài danh của đất nước! Những bài thơ có trong cuốn nhật ký chỉ là hé mở tài năng của anh-một tâm hồn thi ca có thật, đã mãi mãi ra đi cùng hàng vạn chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam trên đất Cam-pu-chia ngày ấy. Nhưng tôi tin là những trang chữ ấy, đã được Trần Duy Chiến viết bằng cả trái tim và tấm lòng kính yêu mẹ, bằng tình ruột thịt mẫu tử mà không phải người mẹ nào cũng hạnh phúc có được. Nếu như còn một thế giới khác thì giờ đây Trần Duy Chiến và đồng đội của anh hẳn đang ở một thế giới tốt đẹp hơn. Khi hài cốt của anh đã được đưa về quê, cho mẹ già tóc bạc thỏa nỗi nhớ mong con, và khi bản nhạc Hồn tử sĩ được tấu lên, trong lễ truy điệu anh tại Đà Nẵng, tôi bỗng nghe một đoạn nhật ký anh viết vang lên đâu đó, như tiếng vọng xa vời:
Con cũng chẳng biết giờ đây con đang vui hay đang buồn nữa. Con đang ở nơi xa lắm, muốn viết về cho mẹ với những gì thương yêu nhất của đời con. Con thấy mình yếu mềm đi một cách lạ thường. Mắt con bỗng nhòa đi. Con đang trở về với mẹ, với ước mơ bằng tiềm thức suy tư và thương nhớ! (28-1-1979).
Đặng Vương Hưng