QĐND - Làng Rọng (Đại Đồng, Tứ Kỳ, Hải Dương) có 2 ông Tam. Cả hai ông đều ra đời trước Cách mạng Tháng Tám, đều có dáng cao to, đẹp trai, tính tình hòa nhã; đều sớm tham gia kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bởi vậy, để phân biệt, dân làng gọi một ông là Tam Hiếu. Có thể cách gọi này từ chỗ ông có người anh ruột tên là Hiếu nhưng cũng có thể vì ông rất giỏi đánh trống khẩu nhạc hiếu.

Đám viếng mà có ông Tam Hiếu đánh trống khẩu thì tang khách dễ thấy như lòng dạ phân đôi. Một bên thương tiếc người quá cố. Một bên thì bị cuốn vào bát âm nổi bật tiếng trống khẩu lúc thao thiết, lúc não nề; lúc nỉ non tiễn biệt người vừa quy tiên về cõi vĩnh hằng, lúc lại thánh thót gọi mời, như muốn giữ lại; lúc như cái sự tư lự, suy tưởng của một người, lúc lại như hiển hiện cả đoàn người một dừng, một bước… Người không đi đưa đám, nằm ở nhà, cứ nghe tiếng trống khẩu, đủ biết đám đang ở trường đoạn nào, lễ mục gì; người gõ trống có tâm trạng ra sao…

Ông Tam Hiếu (giữa) – người luôn biết biến tiếng trống khẩu thành tiếng lòng.

Nhà đám chộn rộn, bối rối. Đội bát âm giúp gia chủ lo chỗ đặt nhạc cụ. Ông Tam Hiếu tự kê ghế cho mình và trống khẩu, không cầu kỳ, chỉ cần nghiêm cẩn, cốt sao để tiếng trống tròn vành, rõ tiếng, âm thanh được đẹp nhất. Ông ngồi trên chiếc ghế đẩu vững chãi, nhìn nghiêng hình dạng giống chữ ngũ trong tiếng Hán. Cái trống khẩu nằm ở khoảng giữa hai đầu gối của ông. Độ cao mặt trống phải đúng tầm để khi gõ, dùi trống tạo với mặt trống một góc nhỏ, bảo đảm chỉ có đầu dùi tiếp xúc với mặt trống, nhưng khi cần pha âm sắc thì thân dùi cũng dễ dàng ép sát mặt trống. Đặt trống cao quá, hoặc thấp quá thì đều không đạt yêu cầu.

Ông Tam Hiếu chẳng những thuộc làu làu làn điệu, thể âm, tiết tấu các bài trống đám hiếu mà ông còn hiểu rõ ý nghĩa sâu xa của chúng. Đại thể: Trống Pháp lôi để gọi kinh cổ, giống như mở đường vào nhạc viếng. Bài này phải đánh đủ 3 hồi ngay lúc mở đầu. Trống Lễ dùng trong lúc có người hành viếng, âm hưởng thể hiện sự thành tâm thương tiếc; nhịp đơn đều đặn “tùng-tùng-tùng” và nhịp kép “cắc-tùng tùng, cắc cắc-tùng”. Khi không có người hành viếng thì cử trống Dong kèn, giữ cho không khí nhà đám được hài hòa.

Bản nhạc hiếu sử dụng một số điệu rất đặc trưng, trong đó thường không thể thiếu điệu Lưu thủy (dòng nước chảy) và điệu Hành vân (áng mây bay). Thuộc và thấu hiểu các điệu ấy, ông Tam Hiếu đưa trống khẩu của mình “phối khí” cùng bát âm, như giao hòa tâm hồn vào nhân tình thế thái, vào sự ly biệt và cuộc tiễn biệt lớn nhất của con người.

Ông Tam Hiếu nói vui: “Ngón trống khẩu của tôi là do trường “đại học tổng hợp” đào tạo!”. Nở nụ cười hóm hỉnh, ông kể, năm 1967, vừa 2 tuổi quân, ông đã là Tiểu đội trưởng tiểu đội công binh thuộc Đoàn H8, Quân chủng Phòng không-Không quân, chuyên phá bom nổ chậm do máy bay Mỹ ném xuống. “Nghề bom” cũng lắm vui, lo. Có những cuộc huy hoàng như tại sân bay Vinh, bằng phương pháp cộng hưởng từ, các ông đã làm 24 quả bom nổ liền một lúc. Có những trận hú hồn, như lần phá bom ở một ngầm trên đất Quảng Bình. Đêm ấy mưa rào, gió đổ cây gẫy cành, anh em di chuyển vào trong xóm ở nhờ nhà dân. Nửa đêm tạnh mưa, máy bay B52 gầm rú và bom nổ rung chuyển mặt đất, biến chỗ ở cũ của tiểu đội thành một đám hỗn độn đất đá và cành cây cháy đen sì… Sau những sự kiện như thế, để anh em đỡ căng thẳng, ông Tam Hiếu thường tổ chức sinh hoạt văn nghệ cây nhà lá vườn. Ông khoét ống nứa làm sáo; lấy lõi dây điện, soong nồi cũ… làm đàn. Ông đặt lời theo các làn điệu dân ca mà ông ngấm từ khi còn bé tí theo mẹ đi xem hội làng, rồi dạy anh em hát… Thủ trưởng thấy ông có năng khiếu, liền cho đi dự lớp bồi dưỡng hạt nhân, bổ sung vào đội văn nghệ xung kích của trung đoàn. Dần dà, ông biết chơi cả đàn tam, sáo nhị, trống… Ông nói: “Quân đội dạy tôi biết phá bom, biết làm cán bộ, lại đào tạo cả văn nghệ nữa. Thế chẳng phải đại học tổng hợp là gì!”.

Một ngày đầu xuân, tôi gặp ông trong lễ viếng một bậc đại thọ ở làng Rọng. Ông tâm sự: “Sinh có hạn, tử bất kỳ. Song không ít cụ già chọn thời điểm quy tiên vào đầu xuân. Hình như các cụ có ý gắng sức vượt qua ngày đông tháng giá, chứng minh sự kiên cường của con người, để rồi thanh thản và tiên cách, ra đi dành chỗ cho con cháu vươn lên giữa khí trời ấm áp sinh sôi. Với những trường hợp như thế, các thành viên ban nhạc hiếu làng Rọng lại giao việc chào Xuân, đón Tết tại nhà cho vợ con để mình đi phục vụ!”. Cùng với họ, ông Tam dắt đôi dùi trống bằng gỗ bóng láng màu thời gian vào thắt lưng rồi đến nhà đám… như ánh lửa nhỏ góp phần làm ấm lòng tang chủ cùng gia quyến, đồng thời cũng để mãn nguyện người vừa nằm xuống - “Sống dầu đèn/ Chết kèn trống”, vốn lẽ đời!

Bài và ảnh: Phạm Xưởng