Người lính gốc Đức, bị Pháp bắt đưa sang Việt Nam làm bia đỡ đạn, đóng quân tại đồn Phước Trạch, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. Vào đêm 14-8-1949, anh đã cùng ông Nguyễn Thanh Phong trốn chạy ra vùng giải phóng và trở thành bộ đội, rồi công an cách mạng. Anh cũng là một thương binh...
Ông Nguyễn Thanh Phong, sinh năm 1935, quê ở phường Cẩm Châu, thành phố Hội An, Quảng Nam, tham gia cách mạng lúc mới 14 tuổi kể tôi nghe lần bị giặc Pháp bắt: “Năm 1949, sau khi học xong khóa trinh sát 3 tháng, tôi và anh Lê Châu, anh Nguyễn Diện được phân công vào hoạt động bí mật ở vùng địch chiếm. Sáng 14-8-1949, nhận được lệnh của thị đội, tôi cùng đồng chí Lê Châu vượt qua đồn Phước Trạch lên thôn An Bàn gặp đồng chí Nhì bàn cách đưa hai trung đội của thị đội vượt qua đồn Phước Trạch về căn cứ An Lương, xã Duy Xuyên ngay trong đêm.
Lúc dẫn hai trung đội vượt qua đồn Phước Trạch về lại căn cứ thì mũi trinh sát của tôi đi sau gặp ổ phục kích của địch. Qua ánh trăng, tôi phát hiện thấy nhiều mũ sắt nhấp nhô ở phía Lăng Ông rất gần. Tôi lấy khăn trắng ra hiệu cho bộ đội biết có địch phục kích. Chờ địch đến gần chừng 10m, tôi ném hai trái lựu đạn về phía quân địch, một trái nổ, một trái không nổ, trung đội đồng chí Nhì đi sau nghe súng nổ liền quay lại đi đường khác. Sau một lúc giao chiến, tôi bị địch bắt đưa vào đồn Phước Trạch tra tấn suốt 3 giờ đồng hồ. Đêm đó, tôi bị nhiều thằng thay nhau đánh đập dã man, ngoài các tên lính Pháp ra còn có tên Đội trưởng Tùng và tên xã trưởng Trọng (người Việt) làm phiên dịch cùng tra tấn.
 |
Đến khoảng 11, 12 giờ đêm, chúng mang tôi ra trói vào cái chòi gác cạnh bờ sông để sáng mai chúng có thể giết tôi. Không lâu sau, có một người lính đến thay gác. Người lính này cao to nhưng nhìn tướng hiền, không hung hăng như mấy tên lính trước. Anh ta cởi thắt lưng lựu đạn để lên bàn, lấy cây súng dựng bên tường, thái độ rất lo lắng rồi ngồi xuống ghế nhìn tôi có vẻ thương cảm. Anh ta trầm ngâm một lúc rồi đột nhiên chỉ vào người tôi rồi nói bập bẹ: “Việt Minh, Việt Minh”. Thấy tôi lắc đầu, anh ta có vẻ buồn, đi đi lại lại rồi chỉ tay ra ngoài nói tiếp: “Việt Minh, Việt Minh”. Tôi cũng lắc đầu. Anh ta bước lại gần chiếc bàn, mở thắt lưng lấy ra hai trái lựu đạn cầm ở hai tay giơ về phía tôi. Thấy tôi đưa hai tay đang bị trói ra cầm thì anh rụt tay lại và dắt lựu đạn vào thắt lưng đến gần tôi hơn với thái độ rất lạ, tay phải anh ta chỉ vào ngực tôi, tay trái chỉ vào ngực mình và nói gấp gáp trong hơi thở 3 tiếng: “Việt Minh, Việt Minh, Việt Minh”. Linh tính mách bảo tôi, hay là anh ta muốn chạy sang Việt Minh. Tôi hỏi lại anh ta: Anh muốn theo Việt Minh hả, không biết anh ta có biết tiếng Việt không mà gật đầu lia lịa, rồi anh chỉ vào tôi nói Việt Minh, tôi cũng gật đầu trở lại. Anh nhanh chóng tiến lại mở trói và dẫn tôi chạy ra ngoài nhưng tôi lắc đầu và chỉ vào khẩu súng và lựu đạn để bên cạnh, anh hiểu ý và quay lại lấy đưa cho tôi hai quả lựu đạn và cây súng cùng một dây đạn tiểu liên dài. Anh thoát ra trước về phía bờ sông, còn tôi đi sau yểm trợ cho anh, đến hàng rào dây thép gai sát mé sông, anh chui ra trước rồi vạch dây thép gai cho tôi chui ra sau. Vì chui ra quá mạnh cho nên tôi rơi tõm xuống sông, anh vội đưa tay kéo tôi lên rồi cõng tôi chạy theo dọc bờ sông.
Nghe tiếng động, bọn lính gác trong đồn gần đó chạy ra chòi kiểm tra, phát hiện biết tôi trốn thoát, bọn chúng báo động inh ỏi. Tôi bình tĩnh dẫn anh đi về hướng biển để đánh lạc hướng bọn chúng. Chạy ra khỏi đồn được chừng 500m, tôi thấy phía trước có nhiều bóng người nhấp nhô, tôi biết là bộ đội phía ta. Sợ bị bộ đội tưởng địch bắn nhầm, tôi la to: “ Phong về đây, Phong về đây, có lính Tây theo phe ta!”. Nhận ra tôi, các anh trong đơn vị rất mừng, lúc này nhìn nét mặt anh ta rạng rỡ hẳn, vì anh ta biết rằng đã đến được với Việt Minh.
Sau đó, đơn vị khẩn trương bố trí ghe để đưa tôi, người hàng binh và đồng chí Châu về căn cứ. Thuyền ra đến giữa sông thì địch trong đồn đuổi theo bắn ra xối xả, đủ các loại vũ khí, đạn rơi lõm bõm xung quanh thuyền, tôi ra hiệu cho anh bình tĩnh nằm xuống. Nhờ kinh nghiệm sông nước cho nên các anh trong đơn vị chèo thuyền tránh được những làn đạn xối xả của quân địch, cuối cùng chúng tôi cũng đến được vùng giải phóng an toàn. Lúc này, tôi cũng bị kiệt sức mê man bất tỉnh suốt một ngày đêm. Trong lúc mọi người chăm sóc tôi thì anh ta ngồi liên tục ở đầu giường tôi, các chị nấu cháo cho anh ăn nhưng anh không ăn. Anh rất buồn vì sợ tôi chết thì không ai bảo lãnh cho anh. Khi tôi tỉnh lại, anh ôm chầm lấy tôi và nói rất nhiều bằng tiếng Đức nên tôi và anh em trong cơ quan cũng chẳng hiểu được gì. Ở với nhau được hai ngày thì đơn vị chúng tôi chuyển anh lên tỉnh đội Quảng Nam quản lý, lúc đầu anh không chịu đi. Chắc anh nghĩ có tôi đi thì anh mới đi, tôi làm các động tác để cho anh hiểu là lên tỉnh anh sẽ được an toàn hơn và Việt Minh tốt lắm. Anh gật đầu và vui vẻ lên đường.
Lúc chia tay, anh khóc rất nhiều, anh ôm tôi vào lòng. Tôi cũng xúc động và cũng chỉ biết nói hẹn ngày gặp lại.
Bốn năm sau, vào tháng 3 năm 1952, anh đến thăm tôi và các đồng chí ở thị đội Hội An. Sau đó, tôi dẫn anh về nhà tôi, lúc này ở gần sông Đào, thuộc xã Thăng An, Thăng Bình, Quảng Nam. Anh kể rằng: Lúc xa tôi, anh rất lo vì không biết số phận của mình như thế nào, nhưng các anh trên tỉnh đội rất tốt, chăm sóc anh chu đáo, giao cho anh những công việc phù hợp và cho học tiếng Việt. Anh lấy tên Việt Nam là Lê Đức Côn. Anh cho biết mình là kỹ sư người Đức bị Hít-le bắt đi lính sang tham chiến tại Pháp. Đức thua trận, Pháp bắt anh làm tù binh và đưa sang Việt Nam làm bia đỡ đạn. Nếu không có cuộc trốn thoát cùng tôi thì chắc chắn anh sẽ chết cho cuộc chiến tranh phi nghĩa này.
Sau khi chuyển lên tỉnh đội, anh cùng với anh bạn người Đức lấy tên Việt Nam là Hồ Đức Ba phụ trách đoàn xe chở bộ đội, vũ khí, lương thực từ Quảng Nam vào Quảng Ngãi. Sau đó, anh Hồ Đức Ba hy sinh, còn anh chuyển sang lực lượng công an. Trong một trận đánh ác liệt, anh bị thương nặng và được đưa về bệnh xá Cây Sanh, Quảng Nam điều trị. Tại đây, anh được một cô y tá tận tình chăm sóc, sau đó họ yêu và lấy nhau. Lúc gặp lại tôi, anh đã có hai đứa con trai. Anh nói, hòa bình anh sẽ cho tôi một đứa làm con nuôi để làm kỷ niệm cho sự gặp gỡ có một không hai trong đời. Gặp nhau được 5 ngày, anh chia tay tôi để trở về đơn vị công tác và cùng nhau hẹn ngày gặp lại.
Nhưng có ai ngờ rằng, chiến tranh lại triền miên và khốc liệt đến vậy. Năm 1955, tôi hành quân vào Quy Nhơn để tập kết ra Bắc, tôi hỏi thăm thì được biết anh công tác ở tỉnh Kon Tum. Những năm tháng ở ngoài Bắc, tôi có hỏi thăm nhưng không biết anh ở đâu. Sau ngày giải phóng, tôi về công tác tại huyện Krông Pắc, tỉnh Đắc Lắc cho đến khi nghỉ hưu, lúc nào tôi cũng nghĩ đến anh.
Ai biết thông tin về người lính Pháp gốc Đức có tên Việt Nam là Lê Đức Côn, xin liên hệ cho chúng tôi theo địa chỉ: Báo QĐND Cuối tuần, 7 Phan Đình Phùng, Hà Nội. ĐT: 0983225576; hoặc với tác giả bài viết: Linh Vương, Đài Truyền thanh huyện Krông Pắc, tỉnh Đắc Lắc. |
Linh Vương