QĐND - Những ngày đầu tháng 8-1964, đế quốc Mỹ đã dựng lên “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” để tạo cớ tiến hành cuộc chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc Việt Nam. Với tinh thần chủ động và cảnh giác cao, cùng với lực lượng phòng không ba thứ quân và nhân dân các địa phương, Bộ đội Hải quân đã chiến đấu anh dũng, đánh trả kiên cường, góp phần bắn rơi 8 máy bay hiện đại của Mỹ và bắn bị thương nhiều chiếc khác. Chiến công này trở thành một mốc son trong lịch sử Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam và lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta.
 |
Bộ đội Hải quân đánh bộ luyện tập chiến đấu. Ảnh: Trọng Thiết
|
Kỷ niệm 50 năm Ngày truyền thống “Đánh thắng trận đầu” (5-8-1964/5-8-2014) Báo QĐND Cuối tuần trích giới thiệu một số nội dung từ những hồ sơ-tư liệu của Quân chủng Hải quân, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam và các nguồn tài liệu khoa học liên quan đến chiến công này.
1.Âm mưu của âm mưu
Những tháng cuối năm 1963, vấn đề Việt Nam ngày càng trở nên nóng bỏng đối với giới cầm quyền Mỹ. Bị thất bại liên tiếp trên chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ buộc phải thay ngựa giữa dòng, hậu thuẫn cho cuộc đảo chính phế bỏ anh em tổng thống tay sai Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu (1-11-1963). Sau đảo chính, tình hình chính trị ở Sài Gòn không những không được cải thiện mà càng trở nên tồi tệ, rối ren hơn. Bọn tay sai mới tiếp tục đấu đá lẫn nhau và không chống đỡ nổi những cuộc tiến công nổi dậy mạnh mẽ của quân và dân ta. Trong khi đó, lực lượng cách mạng ngày càng được củng cố, phát triển và giành nhiều thắng lợi trên các chiến trường.
Nhằm cứu vãn sự thất bại không thể tránh khỏi của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", đế quốc Mỹ quyết định đẩy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam bằng một chiến lược mới và mở cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc, nơi mà chúng cho là "gốc rễ" của cách mạng, là hậu thuẫn của cách mạng miền Nam, để triệt tiêu công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam và ngăn chặn sự giúp đỡ của các nước cho cách mạng Việt Nam.
Tháng 2-1964, Tổng thống Giôn-xơn đã thông qua "chương trình thử nghiệm 4 tháng" gồm 3 nội dung chủ yếu, trong đó có "Kế hoạch Đề-sô-tô", tổ chức các cuộc tuần tra bằng tàu khu trục Mỹ ở khu vực Vịnh Bắc Bộ, nhằm thu thập tin tức tình báo phục vụ cho các hoạt động trong khuôn khổ Kế hoạch 34A, hỗ trợ các cuộc tiến công của hải quân Việt Nam cộng hòa vào bờ biển miền Bắc. Thực chất đây là chương trình hoạt động phô trương sức mạnh và tìm cớ để gây chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ.
Theo đó, Tổng thống Giôn-xơn đã yêu cầu Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Mỹ soạn thảo kế hoạch hành động từng bước, kết hợp cả hoạt động chính trị và quân sự chống lại miền Bắc Việt Nam; soạn thảo dự thảo nghị quyết nhằm tìm kiếm sự phê chuẩn của Quốc hội cho việc mở rộng các hoạt động quân sự ở Đông Dương.
Đến tháng 5-1964, kế hoạch xúc tiến chiến tranh phá hoại miền Bắc đã được đế quốc Mỹ hoàn tất. Hệ thống căn cứ không quân, hải quân bố trí gần miền Bắc nước ta đều đã được bảo đảm sẵn sàng nhận lệnh (Hạm đội 7, căn cứ Đà Nẵng, sân bay Ubon và Cò Rạt ở Thái Lan, Guam ở Thái Bình Dương). Ngay từ ngày 2-3-1964, Mỹ cho tàu khu trục tuần tiễu ven biển miền Bắc Việt Nam vừa trinh sát vừa thăm dò ta và làm hậu thuẫn cho hải quân Việt Nam cộng hòa đánh phá các đảo và vùng dân cư ven biển các tỉnh Khu 4; cho máy bay do thám vùng trời, cho tàu thả biệt kích, hàng tâm lý chiến ở các cửa sông, ven biển và truyền đơn kích động gây chiến tranh tâm lý; cho tàu khu trục, tuần dương vào sát bờ do thám và quấy rối, phá hoại, bắt cóc ngư dân... gây hoang mang trong nhân dân.
Bước sang tháng 7-1964, các hoạt động khiêu khích của Mỹ càng gia tăng hơn. Chúng vừa đẩy mạnh các hoạt động trên biển, trên trời và phá hoại trên đất liền, vừa rêu rao sẽ oanh tạc miền Bắc Việt Nam để gây chú ý của dư luận. Đêm 30-7-1964, chúng cho tàu biệt kích bắn pháo bừa bãi lên đảo Hòn Mê (Thanh Hóa), Hòn Ngư (Nghệ An). Ngày 1 và 2 tháng 8-1964, các máy bay T28 của phái hữu Lào được Mỹ huy động bắn phá Đồn biên phòng Nậm Cắn và làng Noọng Dẻ ở miền tây tỉnh Nghệ An.
Ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ, tàu khu trục Ma-đốc của Mỹ tiếp tục tiến về phía Bắc, xâm phạm hải phận của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và gây ra một số vụ khiêu khích đối với thuyền đánh cá của ngư dân miền Bắc. Đặc biệt, đêm 31-7 rạng sáng 1-8-1964, tàu khu trục Ma-đốc đã tiến vào vùng biển Quảng Bình để thu thập tin tức tình báo và khiêu khích lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam, có lúc chúng vào cách phía đông đèo Ngang khoảng 8 hải lý, vi phạm lãnh hải của ta. Đài quan sát của Hải quân ta ở đèo Ngang nhìn rõ số hiệu 731 của tàu Ma-đốc.
Ngày 2-8-1964, tàu Ma-đốc bị tàu phóng lôi của Hải quân ta tiến công đánh đuổi buộc chúng phải rút ra khỏi vùng biển của Việt Nam. Ngay lập tức, Mỹ lớn tiếng vu cáo “tàu phóng lôi của Việt Nam vô cớ công kích tàu Ma-đốc của Mỹ đang đi trên vùng biển quốc tế...”, và “Bắc Việt Nam khiêu khích trắng trợn, Bắc Việt Nam đã vi phạm luật pháp quốc tế...”. Đêm 4-8-1964, Mỹ đã dựng lên “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, cho tàu khu trục Ma-đốc và tàu Toóc-nơ-gioi ở vùng biển quốc tế phát tín hiệu bị tấn công, vừa hành trình vừa đồng loạt bắn các loại pháo ra xung quanh, rồi ngay lập tức nhà cầm quyền Mỹ ở Lầu Năm Góc lu loa lên rằng: “Một cuộc tiến công cố ý thứ hai trong đêm tối của các tàu tuần tra Bắc Việt Nam đã đánh vào tàu Ma-đốc và tàu Toóc-nơ-gioi trong khi hai khu trục này đang thực hiện tuần tra thường lệ ở Vịnh Bắc Bộ trong hải phận quốc tế cách khoảng 65 dặm…”.
Cái gọi là “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” do giới cầm quyền Mỹ dựng lên thực chất là bịa đặt, cố tình lừa dối nhân dân Mỹ nhằm để thông qua cho được bản nghị quyết của Quốc hội Mỹ về các hoạt động quân sự ở Việt Nam, được gọi là “Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ”, một nghị quyết mà thượng nghị sĩ Mỹ Uay-ni-mo-zơ ở bang O-ri-gan đã mô tả như một bản “tuyên chiến đề ngày trước”. Đó là đường hướng, chính sách của chính quyền Mỹ đối với Việt Nam được tính toán cho việc leo thang mở rộng chiến tranh chứ không phải là bất ngờ hay là một “sự trả đũa”. Chính học giả Đa-ni-en En-bớt của Hoa Kỳ đã khẳng định: Thực chất cuộc tấn công mang tính “trả đũa” lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam chỉ là cái cớ mở đường cho cuộc chiến tranh leo thang đẫm máu của Mỹ ở Việt Nam, một phần của kế hoạch gia tăng áp lực quân sự trên miền Bắc mà Hoa Kỳ đã theo đuổi từ đầu năm 1964.
23 giờ 30 phút ngày 4-8-1964, Tổng thống Giôn-xơn tuyên bố trên Đài Truyền hình Mỹ về việc ra lệnh cho các lực lượng quân sự của Mỹ có “hành động trả lời...” đối với miền Bắc Việt Nam (?).
2. Quân và dân miền Bắc đã sẵn sàng!
Tháng 12-1963, Trung ương Đảng (khóa III) họp Hội nghị lần thứ 9 bàn về một số vấn đề quốc tế và tình hình nhiệm vụ cách mạng ở miền Nam. Hội nghị đã phân tích tình hình so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam và vạch phương hướng, nhiệm vụ tiến lên làm thất bại hoàn toàn chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Đồng thời, hội nghị cũng chỉ rõ: Chúng ta phải cảnh giác, sẵn sàng đối phó với trường hợp Mỹ mạo hiểm mở rộng chiến tranh bằng chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Trung ương xác định “điều quan trọng nhất, quyết định nhất trong bất cứ trường hợp nào vẫn phải nỗ lực tăng cường lực lượng của ta về mọi mặt, đặc biệt là lực lượng quân sự”. Từ đó đã đề ra phương hướng cho quân đội xây dựng, nâng cao sức mạnh chiến đấu bảo vệ miền Bắc, tăng cường lực lượng chủ lực và đẩy mạnh tác chiến tập trung ở miền Nam, cùng toàn dân đánh bại cuộc “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và sẵn sàng đánh thắng Mỹ nếu chúng mở rộng chiến tranh ra miền Bắc.
Thực hiện chủ trương của Đảng, để chủ động bảo vệ miền Bắc, ngày 9-1-1964, Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam tổ chức Hội nghị Phòng không nhân dân toàn miền Bắc lần thứ nhất để bàn các biện pháp đánh bại các cuộc tập kích của máy bay địch. Ngày 27 và 28-3-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt. Hội nghị này được coi như “Hội nghị Diên Hồng” của dân tộc trong thời đại mới. Dự hội nghị có các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và hơn 300 đại biểu là những cán bộ lão thành, những nhà hoạt động chính trị uy tín; những người tiêu biểu cho các giới, các ngành, đại biểu anh hùng, chiến sĩ thi đua, trí thức tiến bộ và nhân sĩ yêu nước... Sau khi nghe và thảo luận Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày, toàn thể hội nghị đã biểu thị sự đoàn kết nhất trí xung quanh Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết tâm chiến đấu bảo vệ miền Bắc, đẩy mạnh cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Tháng 6-1964, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra chỉ thị “Tăng cường sẵn sàng chiến đấu, phá tan âm mưu khiêu khích, đánh phá miền Bắc của không quân địch”. Chỉ thị nêu rõ: "Các lực lượng vũ trang trên miền Bắc phải sẵn sàng chiến đấu, kiên quyết tiêu diệt địch nếu chúng xâm phạm miền Bắc". Tổng tham mưu trưởng đã ra lệnh báo động sẵn sàng chiến đấu và chỉ thị "Hải quân nhanh chóng chuẩn bị mọi mặt để chiến đấu bảo vệ vùng biển, tuyến ven bờ, các hải cảng, cửa sông và căn cứ; nhanh chóng chuyển mọi sinh hoạt của đơn vị sang thời chiến".
Quán triệt Nghị quyết Trung ương và Lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, ngay từ đầu tháng 4-1964, Thường vụ Đảng ủy Quân chủng Hải quân đã quyết định triển khai đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng nhằm làm chuyển biến nhận thức tư tưởng trong toàn quân chủng trước tình hình yêu cầu nhiệm vụ mới. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo: "Sẵn sàng khi có lệnh là đi, có địch là đánh; nhiệm vụ ở đâu cũng làm, khó khăn mấy cũng vượt; kẻ địch nào cũng đánh, đánh là phải tiêu diệt". Đồng thời xây dựng tinh thần đoàn kết giúp nhau tiến bộ, tích cực học tập, đẩy mạnh thi đua "Ba nhất", hăng hái ghi tên đi chiến đấu và thi đua giành đơn vị Quyết thắng.
Đầu tháng 5-1964, Đảng ủy Quân chủng Hải quân ra nghị quyết lãnh đạo nhằm tạo động lực mạnh mẽ, chủ động chuẩn bị tốt mọi mặt, từng bước đưa quân chủng chuyển vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu với quyết tâm cao nhất. Từ ngày 6-7-1964, toàn Quân chủng Hải quân đã chuyển sang trạng thái thời chiến. Trước những hành động khiêu khích phá hoại ngày càng tăng của Mỹ-ngụy ở vùng biển Khu 4, Bộ tư lệnh Quân chủng quyết định thành lập Sở chỉ huy tiền phương tại căn cứ Sông Gianh do đồng chí Đại tá Nguyễn Bá Phát, Phó tư lệnh Quân chủng phụ trách. Các tàu phóng lôi ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao. Các đơn vị pháo bờ biển chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cấp 2. Các cơ quan, đơn vị trên bờ khẩn trương xây dựng hầm hào, công sự phòng tránh và đánh địch. Cán bộ, chiến sĩ đang nghỉ phép được gọi về đơn vị làm nhiệm vụ. Cuối tháng 7-1964, mọi công tác chuẩn bị chiến đấu của quân chủng đã cơ bản hoàn thành… Cả miền Bắc XHCN đã sẵn sàng đối phó với những âm mưu, thủ đoạn mới của địch!
(còn nữa)
HOÀNG TRƯỜNG (tổng hợp)