 |
Bút tích nhật ký liệt sĩ Đinh Hữu Hợi |
Người chiến sĩ ấy hy sinh trên chiến trường Tây Nguyên ngày 23 tháng 5 năm 1972. Hơn một năm sau, gia đình nhận được giấy báo tử cùng di vật duy nhất là cuốn nhật ký bằng thơ. Thương em, sợ bố mẹ đau xót mỗi khi nhìn thấy cuốn nhật ký, người chị đã cất giấu nó gần 35 năm nay. Và chúng tôi may mắn là những người đầu tiên được thông tin về cuốn nhật ký thiêng liêng gắn với cuộc đời người liệt sĩ ấy.
Cuộc đời và tập nhật ký của người đã khuất
Vào những ngày cuối tháng 7-2006, khi mà cả nước đang có nhiều hoạt động đền ơn đáp nghĩa hướng về ngày Thương binh - liệt sĩ, chúng tôi đã tìm đến nhà riêng bà Đinh Thị Tuất ở số nhà 24B, đường Phù Đổng Thiên Vương, phường 8, TP Đà Lạt-chị ruột của liệt sĩ Đinh Hữu Hợi để tìm hiểu về anh. Như đã hẹn trước, sau lời chào hỏi xã giao, bà Tuất dẫn chúng tôi vào gian phòng nơi đặt bàn thờ liệt sĩ Đinh Hữu Hợi.
Không gian ấm cúng và thiêng liêng. Trên bàn thờ, cùng với bức ảnh chân dung trắng-đen của liệt sĩ Đinh Hữu Hợi là những bình hoa tươi, bát nhang, đĩa trái cây và ngọn đèn dầu đang cháy sáng. Bà Tuất mở ngăn tủ lấy cuốn nhật ký cẩn trọng đặt lên bàn thờ rồi thắp nén nhang cho hương hồn người đã hy sinh. Sau vài phút, bà nén xúc động, kể: “Cậu Hợi là em kế tôi. Bố mẹ tôi có cả thảy 5 người con, tôi là chị cả, cậu Hợi là con trai duy nhất, sau cậu còn 3 người em gái. Ngày đó, gia đình tôi thuộc loại nghèo ở xã Xuân Đan, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Tuy vậy, chúng tôi vẫn được bố mẹ cho ăn học đến nơi đến chốn. Mùa hè năm 1965, khi vừa học hết lớp 8, cậu Hợi đã xung phong lên đường nhập ngũ, rồi vào thẳng chiến trường Quảng Trị chiến đấu…”.
Bà Tuất ngừng lại một lúc trong cơn xúc động mạnh, rồi tiếp: “Từ lúc nhập ngũ đến ngày hy sinh, cậu ấy chỉ về thăm nhà có hai lần vào năm 1967 và 1971. Khi đi B lần thứ hai, gia đình cũng chỉ nhận được một lá thư duy nhất của cậu gửi về một tuần trước ngày hy sinh… Đó là những thông tin ít ỏi mà gia đình tôi được biết từ ngày cậu vào chiến trường. Cũng may, cậu còn để lại cuốn nhật ký này…”.
Bà Tuất đưa cho chúng tôi xem cuốn nhật ký nhỏ, kích thước chỉ khoảng 10cm x15cm, giấy đã đổi màu vàng úa, có nhiều vết loang vì bị thấm nước, nhiều dòng chữ bút mực đã mờ phai không đọc được. Trên tờ bìa của cuốn nhật ký nhỏ này còn dính vết máu đã khô đen.
Chúng tôi lần giở cẩn thận từng trang nhật ký – di vật thiêng liêng và cũng mang nhiều thông tin quý giá về những tháng ngày chiến đấu của anh Đinh Hữu Hợi. Cuốn nhật ký được viết từ hai phía, trước và sau: Phía trước là những bài thơ anh viết ở chiến trường, phía sau là phần “Ghi nhớ”, anh ghi lại những sự kiện đáng nhớ trong cuộc đời. Qua phần này, chúng tôi biết được anh đã theo đơn vị hành quân qua nhiều tỉnh, đóng quân tại nhiều trạm giao liên, không những ở nước ta mà còn sang đất bạn Lào, đó là: Khăm-muộn, Thà-khẹt, Xa-van-na-khẹt, A-tô-pơ… Đặc biệt, những sự kiện diễn ra vào cuối tháng 4, đầu tháng 5 năm 1972 được anh ghi lại khá chi tiết: “Ngày 15-4-1972 giải phóng hoàn toàn thị xã Bình Long và vây chặt quân thù ở thị trấn Châu Thành; ngày 23-4-1972 giải phóng Đắc Tô - Tân Cảnh; bản thân chốt giữ ở cao điểm 759 phía nam Đắc Tô; ngày 26-4 ra chân cao điểm 1338… Ngày 13-5-1972 cũng là mốc cuối cùng trong phần ghi nhớ của cuốn nhật ký.
Bà Tuất kể tiếp: “Tháng 11-1973, một năm rưỡi sau khi cậu Hợi hy sinh, gia đình nhận được giấy báo tử kèm theo cuốn nhật ký và một cây bút. Lúc đó bố mẹ tôi đi vắng nên tôi là người trực tiếp đứng ra nhận. Vào thời điểm đó, cây bút đang rất hiếm và có giá trị, nên một thời gian sau tôi cho đứa em gái đi học (sau này bị thất lạc), còn cuốn nhật ký thì tôi cất vào đáy rương giấu bố mẹ. Lúc đó tôi chỉ cất kẻo sợ bố mẹ nhìn thấy rồi xót thương cậu Hợi thôi chứ chẳng nghĩ gì. Cũng may nhờ vậy mà giữ được cho đến bây giờ…”.
Những bài thơ nơi chiến trận
Phần quan trọng nhất trong cuốn nhật ký mà liệt sĩ Đinh Hữu Hợi để lại đó là những bài thơ. Phần này gồm 26 bài thơ anh viết chủ yếu vào khoảng thời gian năm 1971 và những tháng đầu năm 1972 (đi B lần hai).
Những bài thơ anh Đinh Hữu Hợi viết nơi chiến trận có thể chưa thật chuẩn về mặt câu từ, chưa hay về vần điệu, nhưng mang trong đó những suy nghĩ rất thật của người lính. Trước hết, đó là nỗi nhớ nhung khi rời xa quê hương đi chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Trong bài “Tâm tư’ viết ngày 5-12-1971 có đoạn: “Nhớ từng hàng cây xanh/ Nhớ mảnh vườn tươi mát/ Nhớ biết bao tiếng hát/ Của bao bạn trẻ ca/ Nhớ bà, nhớ mẹ cha…”. Một lần khác, vào đêm 6 rạng sáng ngày 7 tháng 12 năm 1971, anh viết: “Nằm mơ được gặp toàn gia đình/ Gặp em yêu cùng chung một tổ ấm/ Sống êm đềm bên nhau”…
Còn đây là một đoạn trong bài thơ “Về với Tây Nguyên” anh viết ngày 30-1-1972: “Ôi Tây Nguyên quê hương bất khuất/ Của những con người anh dũng năm xưa/ Nay là những vần thơ cách mạng/ Nay cũng là những lời ca trong sáng…”.
Có thể nói, những bài thơ mộc mạc mà liệt sĩ Đinh Hữu Hợi để lại như một thước phim ghi lại những cảm xúc, hình ảnh trên những bước đường hành quân mà anh đã đi qua. Từ những ngày hành quân vượt Trường Sơn, chiến đấu trên chiến trường Tây Nguyên… đến vượt suối băng đèo sang tận đất bạn Lào với nhiều địa danh được nhắc tới như: Sê-pôn, Sê-côn, A-tô-pơ, Sê-băng-hiêng…
Tiếc rằng, những bài thơ-nhật ký của người chiến sĩ Đinh Hữu Hợi đã đột ngột dừng lại bởi bom đạn quân thù.
Nghĩa tình với người đã hy sinh
Năm 1984, bà Tuất chuyển vào công tác tại Sở Lương thực tỉnh Lâm Đồng. Từ đó, ngoài phần lo công việc, bà luôn để ý nghe ngóng thông tin về phần mộ của người em liệt sĩ. Trong giấy báo tử chỉ ghi “Hy sinh tại mặt trận phía Nam”, không rõ ở khu vực cụ thể hay ở tỉnh, huyện nào, nên rất khó khăn trong việc tìm kiếm. Hễ nghe ở đâu có thông tin liên quan là bà Tuất lại nhanh chóng tìm tới để dò hỏi. Đã nhiều lần, bà một mình bôn ba sang tận những huyện vùng núi non hiểm trở ở các tỉnh Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum để hỏi thăm thông tin.
Một đêm tháng 9 năm 1985, người chị họ của bà là Đinh Thị Dậu, dạy học ở xã Lạc Lâm, Đơn Dương (Lâm Đồng) nằm mơ thấy cậu Hợi về nhắn rằng: “Ả ơi, nói với ả Tuất đừng đi tìm Hợi, khó lắm”. Bà Tuất nghe vậy nghĩ thương em đến đứt ruột nhưng vẫn cố giữ kín trong lòng không dám nói ra, sợ bố mẹ buồn. Từ đó, bà lại càng không nguôi quyết tâm đi tìm phần mộ của người em trai, bà bỏ nhiều thời gian hơn để đi dò hỏi. Năm 1995, lại một đêm nữa, người chị ruột còn đang chập chờn ngủ thì mơ thấy cậu Hợi về, nói “Ả Tuất sang chơi thăm Hợi…”. Bà mừng quýnh hỏi “Biết cậu ở đâu mà sang?”. Thế là cậu ấy chỉ đường cho bà sang nghĩa trang Chư Prông, tỉnh Gia Lai, chỉ dẫn cả nơi nằm là hàng mộ thứ ba từ cổng vào…
Ngay sáng hôm đó, bà Tuất một mình khăn gói lên đường, trong tay chỉ vẻn vẹn 500 nghìn đồng – số tiền người con trai cho để ăn Tết. Lên Đắc Lắc, bà tìm gặp một người cháu họ ở cây số 3 rồi hai người cùng đi sang Gia Lai. Đến bến xe Gia Lai, phải đi bộ vào Sở Lao động – Thương binh – Xã hội. Lúc đó khoảng 12 giờ rưỡi trưa, sau đoạn đường dài vừa mệt vừa đói, bà bị ngất xỉu, may nhờ có cô văn thư giúp đưa vào phòng rồi gọi y tá đến chăm sóc. Bà vừa tỉnh thì một người đàn ông đi xe gắn máy ghé vào hỏi han tên tuổi, cầm cuốn nhật ký lên coi một lúc rồi chở vào Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, sau đó quay xe đi liền, không lấy tiền. Sau khi trình giấy tờ, các đồng chí ở Bộ chỉ huy quân sự Gia Lai đã hết sức nhiệt tình, sốt sắng lục tìm hồ sơ lưu trữ. Tìm đến quyển thứ ba thì người cháu của bà Tuất thấy tên… Sau này, qua thông tin từ người quản trang, bà Tuất mới biết mộ liệt sĩ Hợi được quy tập về đây từ khoảng 6-7 năm trước. Từ đó đến nay, bà Tuất đã lặn lội vào thăm mộ người em liệt sĩ nhiều lần.
Khi quyết định thông tin với chúng tôi về cuốn nhật ký được cất giữ gần 35 năm nay, ý nguyện lớn nhất của bà Tuất là “để lớp trẻ được biết thêm về tinh thần, ý chí và sự hy sinh của thế hệ cha anh, nối tiếp truyền thống ấy phấn đấu xây dựng đất nước giàu mạnh”.
NGUYỄN CHÍ LONG và NAM VIÊN