Lần thứ 3 tôi đến thăm vị Tư lệnh cũ của mình, Thượng tướng-Giáo sư Hoàng Minh Thảo, vào một buổi chiều tháng Ba cách nay đã 8 năm. Không ngờ đó là lần gặp cuối cùng của tôi với vị Thủ trưởng kính mến của chúng tôi những năm chiến đấu ở Tây Nguyên. Dịp ấy, Thượng tướng vừa trải qua một cuộc đại phẫu thuật để lấy cục sỏi trong thận. Đã ngoài tám chục tuổi, vết mổ chưa cắt chỉ, ông vẫn còn rất yếu, phải ngồi tựa lưng vào ghế sa-lông gỗ có lót chiếc gối bông phía sau. Tuy vậy, ông vẫn lưu tôi lại đến 3 giờ đồng hồ để nói chuyện về Tây Nguyên ngày ấy. Bà Thảo ngồi phe phẩy chiếc quạt giấy cho ông, thi thoảng đưa mắt sang tôi như nhắc nhủ "ông ấy còn mệt lắm". Vậy mà tôi, dù đọc được những mật lệnh của bà Thượng tướng, vẫn không thể đứng dậy ra về, bởi thấy ông vẫn đang rất ưu ái viên hạ sĩ tiểu đội phó, lính cũ của mình…
 |
Thượng tướng-giáo sư Hoàng Minh Thảo (bên trái) và tác giả tại Hà Nội, tháng 3-2003. Ảnh: Đức Thọ
|
Ông nhấp nhẹ chén trà, hỏi tôi: "Cậu ở đơn vị xe ô tô phải không nhỉ?". Tôi cảm động vì mấy chục năm rồi mà thủ trưởng vẫn chưa quên: "Dạ! Em ở vận tải sư 10". Ông gật gật: "Hồi các cậu vào, anh Thái Bá Nhiệm đi đón ngoài Cảnh Bắc. Tôi nhớ đơn vị này vào để chuẩn bị cho Đắc Tô-Tân Cảnh". Đúng là cuối năm 1971, tiểu đoàn xe của chúng tôi vượt qua bao gian khó hiểm nguy, sau gần 2 tháng hành quân, vào đến Tây Nguyên thì được gặp thủ trưởng phòng hậu cần mặt trận ra đón và lệnh cho đơn vị đào vách núi thành hầm, giấu ô tô vào đó rồi kẻ thì đi đẩy xe thồ, người thì đi gùi đạn. Riêng tôi được điều đi hàn "khò" khung xe đạp cho Tiểu đoàn 1 xe thồ, có hôm phải đi đốt than để phục vụ lò hàn…
Thượng tướng trầm ngâm: "Lính B3 biết rất rõ sự gian khổ do thiếu đói, do địa hình hiểm trở nên gần suốt cả cuộc chiến tranh, lực lượng chủ yếu là bộ binh và pháo binh nhẹ, tất cả là chân, là vai. Các đơn vị cấp trung đoàn đã lớn lắm rồi. Bây giờ riêng một chiến trường này đã có đến 5 sư đoàn, 15 trung đoàn đủ các binh, quân chủng. Đời làm tướng, đến lúc ấy cứ như mơ, cứ muốn đánh một trận "trúc chẻ tro bay" như cha ông ta ngày trước. Nhưng dù lực lượng ta rất mạnh thì cũng không thể chủ quan, không được coi thường xương máu bộ đội, coi thường quân địch. Để công kích thắng lợi vào Buôn Mê Thuột, chúng ta đã chia quân đánh nghi binh vào Plây-cu, Kon Tum, cắt đường 14 để giam chân chủ lực địch lại phía bắc Tây Nguyên, đồng thời đánh chiếm Đức Lập, Thuần Mẫn…".
Tôi ngồi nghe mà có cảm tưởng như ông chẳng quên một chi tiết, một địa danh, một phiên hiệu đơn vị nào. Vị Giáo sư uyên bác của quân đội ta, với bộ lông mày dài và rậm đã đốm bạc rủ xuống che một phần đôi mắt sáng rực, nở nụ cười thật hiền tươi, như không hề có vết mổ ở bụng chưa cắt chỉ. Tôi chợt giật mình liếc nhìn đồng hồ, liếc nhìn bà Thảo. Bắt gặp ánh mắt như biết lỗi của vị khách vô duyên quấy rầy bệnh nhân của bà không phải lúc, bà phân giải: "Ông nhà tôi mà gặp bộ đội Tây nguyên là mừng lắm, ông tiếp tận tình với bất cứ ai. Nhưng hôm nay...". Tôi muốn ra về để ông nghỉ ngơi thì ông lại ra hiệu tôi ngồi lại: "Cậu đã là nhà báo, tôi mừng lắm. Viết về Tây Nguyên đã có một số nhà văn, nhà báo, nhà viết sử… nhưng làm sao viết hết được sự hi sinh và vai trò của quân dân Tây Nguyên trong hai cuộc kháng chiến vừa rồi. Những người đã từng chiến đấu ở Tây Nguyên viết về miền đất này sẽ thuận lợi hơn người ngoài cuộc. Mà càng lùi xa cái dấu son lịch sử ấy thì càng vơi đi những người viết là những người đã biết về Tây Nguyên".
Tôi cất chiếc máy ghi âm vào túi, đứng dậy. Ông định đứng lên nhưng chợt nhíu mày, tay đặt khẽ vào vết thương. Tôi vội cúi xuống nắm lấy bàn tay ông, đỡ ông ngồi lại. Bác Thảo gái đã quay ra từ lúc nào, lo lắng nói với tôi: "Ngồi lâu quá ông mệt lắm đấy. Đã đến ngày cắt chỉ rồi mà vết mổ chưa khô. Chú thông cảm cho bác nhé". Tôi chợt cay cay ở mắt, lí nhí nói lời xin lỗi bà. Vị Tư lệnh bảo tôi: "Trận Buôn Mê Thuột là cái chìa khoá vàng bấm trúng lối vào chiến thắng của cách mạng miền Nam. Hôm nào rỗi lại tới đây nhé!".
Bùi Quang Thanh