QĐND - Sau hơn 3 năm tiến hành các thủ tục tố tụng, ngày 30 và 31-10 vừa qua, vụ án Công ty TNHH Ngọc Hưng (thị trấn Lao Bảo, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị) bị khởi tố khi xuất khẩu 535,8m3 gỗ trắc nhập khẩu từ Lào đã được TAND TP Đà Nẵng đưa ra xét xử. Tuy nhiên, sau hai ngày xét hỏi, Hội đồng xét xử đã quyết định hoàn trả hồ sơ để điều tra bổ sung vụ án do còn quá nhiều vấn đề mâu thuẫn chưa được làm rõ.
Nhiều mâu thuẫn chưa được làm rõ
Theo cáo trạng của Viện KSND Tối cao ngày 7-5-2014, Công ty TNHH Ngọc Hưng (Công ty Ngọc Hưng) nhập lô gỗ trắc từ Lào, qua Cửa khẩu Lao Bảo (Quảng Trị), sau đó xuất cho doanh nghiệp ở Hồng Công (Trung Quốc) qua cảng Đà Nẵng. Trên đường đưa gỗ xuống cảng, Công an quận Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng) khám xét một công-ten-nơ, phát hiện có gỗ giáng hương. Theo chỉ đạo của lãnh đạo Tổng cục Hải quan và Cục Điều tra chống buôn lậu thuộc Tổng cục Hải quan, lô hàng bị giữ lại khám xét và vụ án buôn lậu được khởi tố. Số gỗ đã xếp xuống tàu phải bốc lên, cả lô gỗ bị tạm giữ. Cáo trạng cho rằng, Công ty Ngọc Hưng đã “lập bộ hồ sơ, chứng từ giả, sau đó dùng bộ hồ sơ này để buôn lậu 614,672m3 gỗ không rõ nguồn gốc” (số lượng gỗ có khác nhau do kết quả kiểm tra của cơ quan chức năng không thống nhất-PV). Liên quan đến vụ án này, còn có 3 cán bộ hải quan bị khởi tố. Trong đó, ông Đỗ Danh Thắng (Cục Hải quan TP Đà Nẵng) bị khởi tố vì “không làm hết trách nhiệm”, để gỗ xếp xuống tàu phải tốn tiền bốc lên cùng chi phí lưu bãi hơn 2,2 tỷ đồng.
Tuy nhiên, sau hai ngày xét hỏi 5 bị cáo và hàng chục người có quyền và nghĩa vụ liên quan, Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa, yêu cầu điều tra bổ sung làm rõ các nội dung: Nguồn gốc lô gỗ, mâu thuẫn trong các bản giám định khối lượng lô gỗ, dấu búa kiểm lâm đóng trên lô gỗ và hơn 2,2 tỷ đồng chi phí bốc dỡ, lưu bãi mà cơ quan hải quan yêu cầu được chi trả từ tiền bán lô gỗ...
 |
Quang cảnh phiên tòa.
|
Trả lời thẩm vấn của Hội đồng xét xử, nguyên Chi cục trưởng Chi cục Hải quan Cửa khẩu cảng Đà Nẵng Đỗ Danh Thắng khai, việc ra quyết định tạm giữ lô hàng là làm theo các công văn chỉ đạo của Tổng cục Hải quan và Cục Hải quan TP Đà Nẵng. Trong khi đó, đại diện Cục Hải quan TP Đà Nẵng và Quảng Trị có mặt tại tòa cho rằng, hậu quả thực tế của vụ án này chưa xảy ra. Đại diện Cục Hải quan tỉnh Quảng Trị cho rằng, việc kiểm tra hàng hóa của công chức Đỗ Lý Nhi và Lê Xuân Thành (Cục Hải quan tỉnh Quảng Trị) là "đúng quy định pháp luật".
Trong công văn gửi cho Hội đồng xét xử, ông Lê Văn Tới (Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh Quảng Trị) khẳng định rằng: Lô hàng gỗ trắc nhập khẩu và xuất khẩu nguyên lô theo tờ khai là đúng quy định pháp luật. Hành vi khai sai số lượng, chủng loại của doanh nghiệp nhập khẩu chưa đủ yếu tố cấu thành tội buôn lậu mà chỉ xử lý hành vi vi phạm hành chính. “Hành vi nhập khẩu, xuất khẩu lô hàng gỗ trắc của Công ty Ngọc Hưng không gây hậu quả về trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, không gây thất thu ngân sách. Kết luận điều tra, điều tra bổ sung và cáo trạng chưa chứng minh được hậu quả nghiêm trọng do hành vi thiếu trách nhiệm của các nhân viên hải quan”-ông Lê Văn Tới khẳng định.
Ai chịu trách nhiệm về hơn 3 tỷ đồng chi phí phát sinh?
Ba cán bộ hải quan đại diện Cục Điều tra chống buôn lậu có mặt tại phiên tòa khi trả lời thẩm vấn đều không đưa ra được bằng chứng xác thực về “hậu quả gây thiệt hại nghiêm trọng” của vụ án. Trong khi đó, diễn biến phiên tòa cho thấy, thiệt hại rõ nhất của vụ án thuộc về Nhà nước và doanh nghiệp do những quyết định được cho là chưa đúng pháp luật của một số cơ quan chức năng. Bị cáo Trương Huy Liệu khai, lô gỗ theo thời giá khoảng 300 tỷ đồng nhưng đã bị bán đấu giá khi vụ án chưa được tòa xét xử với giá chỉ hơn 63,6 tỷ đồng. Đại diện Cục Hải quan TP Đà Nẵng phát biểu tại tòa cũng thừa nhận: “Đang trong quá trình điều tra vụ án mà bán tang vật là sai. Lô gỗ này chỉ tòa án mới có quyền cho bán!”. Về phía Nhà nước, chỉ riêng chi phí cho việc chuyển toàn bộ lô hàng từ tàu lên bờ để khám xét hơn 30 ngày, chi phí lưu kho bãi đã phát sinh chi phí hơn 2,2 tỷ đồng. “Chi phí 2,2 tỷ đồng là phản ánh chưa đầy đủ, tôi được biết trên thực tế phải hơn 3 tỷ đồng”-bị cáo Đỗ Danh Thắng phát biểu tại tòa. Đó là chưa kể riêng số tiền phục vụ cho hoạt động khám xét, điều tra của Cục Điều tra chống buôn lậu cũng được cơ quan này yêu cầu lên tới 998 triệu đồng.
Bị cáo buộc thiếu trách nhiệm dẫn đến phát sinh những khoản chi phí lớn nêu trên, bị cáo Đỗ Danh Thắng phản cung: “Tôi đã làm hết trách nhiệm ngay từ đầu, yêu cầu không gia hạn tạm giữ lô hàng và cảnh báo nếu gia hạn thì sẽ phát sinh chi phí lớn. Nhưng ông Nguyễn Văn Cẩn, Phó tổng cục trưởng chỉ đạo trong cuộc họp ở Đà Nẵng rằng cứ gia hạn, “Tổng cục Hải quan không thiếu tiền”. Điều này được kiểm chứng trong công văn của Tổng cục Hải quan nói sẽ sử dụng kinh phí thường xuyên của Tổng cục Hải quan để thanh toán cho việc tạm giữ lô hàng”- bị cáo Đỗ Danh Thắng khai. “Tôi đã nhiều lần báo cáo lên Tổng cục Hải quan đề nghị không tiếp tục tạm giữ lô hàng nhưng cấp trên còn không cho tôi báo cáo. Sợ phải chịu trách nhiệm, tôi đã báo cáo vượt cấp lên Bộ trưởng Bộ Tài chính nên trong vụ việc này không thể nói tôi thiếu trách nhiệm, cáo trạng nêu tôi không báo cáo là không đúng”-bị cáo Đỗ Danh Thắng khẳng định. Theo hồ sơ vụ việc, lời khai của bị cáo Thắng là đúng, ông này đã có rất nhiều văn bản báo cáo đề nghị Cục Hải quan TP Đà Nẵng, Tổng cục Hải quan, Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc xử lý lô hàng.
Cũng liên quan đến số tiền chi phí phát sinh từ khám xét, lưu bãi kho hàng, Hội đồng xét xử đã yêu cầu Cục Hải quan TP Đà Nẵng trả lời về khoản tiền hơn 2,2 tỷ đồng đã được quyết toán năm 2012 theo chỉ đạo của Tổng cục Hải quan. Thế nhưng hiện nay, Cục Hải quan TP Đà Nẵng vẫn có công văn thông qua Tổng cục Hải quan đề nghị thanh toán thêm số tiền này từ nguồn bán đấu giá lô hàng. Hội đồng xét xử yêu cầu làm rõ việc đề nghị này có đúng pháp luật không, có dấu hiệu thanh toán trùng lặp không; chưa kể hồ sơ chứng từ đề nghị thanh toán đều là bản phô tô, không có chứng từ gốc. Đại diện Cục Hải quan TP Đà Nẵng đã không trả lời được câu hỏi của tòa, và cho biết việc này thuộc trách nhiệm của Tổng cục Hải quan.
Cục Điều tra chống buôn lậu cũng bị Hội đồng xét xử đặt câu hỏi nghi vấn trong việc đề nghị thanh toán số tiền 998 triệu đồng cho khám xét lô hàng và các chi phí xác minh, điều tra, kể cả xác minh ở Lào. Ông Lê Nam Phong, đại diện Cục Điều tra chống buôn lậu cho biết, số tiền này đã được thanh toán theo đúng Thông tư số 79/2008 của Bộ Tài chính. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cho rằng, thông tư này không cho phép thanh toán đối với vụ việc như của Công ty Ngọc Hưng. “Nếu trường hợp tòa án phán quyết vụ việc không có dấu hiệu buôn lậu thì số tiền 998 triệu đồng sẽ được xử lý như thế nào?”. “Sẽ được hạch toán vào chi phí điều tra chống buôn lậu của Cục Điều tra chống buôn lậu”-ông Lê Nam Phong giải thích.
Qua những diễn biến tại phiên tòa cho thấy, cần làm rõ thêm trách nhiệm của ngành hải quan trong xử lý các khoản chi phí liên quan tới quá trình điều tra vụ án. Có hay không dấu hiệu chồng chéo, tiêu cực khi khoản tiền hơn 2,2 tỷ đồng và 998 triệu đồng đã được quyết toán vào chi phí của ngành nhưng ngành hải quan vẫn yêu cầu Hội đồng xét xử trích thanh toán từ nguồn bán đấu giá lô hàng? Mặt khác, cần làm rõ hơn trách nhiệm chỉ đạo của Cục Điều tra chống buôn lậu và lãnh đạo Tổng cục Hải quan trong việc gia hạn tạm giữ lô hàng, làm phát sinh thêm chi phí nhiều tỷ đồng do bốc dỡ, lưu bãi kho hàng dù đã được cấp dưới báo cáo, kiến nghị không tạm giữ trái pháp luật? Đây cũng là vấn đề được Hội đồng xét xử yêu cầu điều tra bổ sung, làm rõ.
Có cần hỗ trợ tư pháp quốc tế?
Một trong những lý do Hội đồng xét xử trả hồ sơ, yêu cầu điều tra bổ sung có liên quan đến vấn đề: Cần làm rõ hơn nguồn gốc lô hàng, làm rõ mối quan hệ giữa ông Đon (người bán hàng cho Công ty Ngọc Hưng) và Nhà máy Chế biến gỗ nội thất Lào, xác định dấu búa của những thanh gỗ tang vật vụ án... Tuy nhiên, theo các luật sư, vấn đề này là không cần thiết. Theo Luật sư Nguyễn Xuân Bính (Hà Nội): Yếu tố quyết định cấu thành tội buôn lậu là xuất khẩu gỗ có nguồn gốc từ rừng tự nhiên trong nước. Trong khi với lô gỗ trắc của Công ty Ngọc Hưng, trong chính kết luận điều tra và bản cáo trạng đều xác định nhập khẩu chính ngạch từ Lào và đang chuẩn bị xuất chính ngạch đi Hồng Công. Trước phiên tòa, Cục Kiểm lâm đã hai lần có công văn khẳng định: “Doanh nghiệp không vi phạm”. Bộ Công Thương cũng có công văn nêu rõ: Gỗ trắc được tự do tạm nhập, tái xuất mà không phải xin phép.
Theo Luật sư Lê Văn Khiển (Quảng Trị) thì việc tiến hành hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ vụ án trên lãnh thổ nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào là không phù hợp pháp luật về tố tụng hình sự. Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam không quy định, cho phép người tiến hành tố tụng tiến hành hoạt động tố tụng trên lãnh thổ quốc gia khác. Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam ký với Lào và Hiệp định tư pháp ký với các nước ASEAN tại Điều 2 nêu rõ: “Không cho phép bất kỳ một quốc gia thành viên nào thực hiện trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia thành viên khác quyền tài phán hay các chức năng thuộc thẩm quyền tuyệt đối của các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia thành viên khác theo quy định của pháp luật nước đó”.
Với quá nhiều mâu thuẫn của vụ án được Hội đồng xét xử nêu ra tại phiên tòa, thiết nghĩ, cơ quan pháp luật nên tập trung xác minh những vấn đề có tính bản chất để xử lý công minh vụ việc, không cần tiến hành hoạt động hỗ trợ tư pháp quốc tế rườm rà, không đúng pháp luật. Mặt khác, hoạt động này có thể tiếp tục phát sinh thêm nguồn chi phí tốn kém nhiều tỷ đồng một cách lãng phí, không cần thiết khi mà những vấn đề trên đều đã được cơ quan chức năng nước bạn có công văn phản hồi, có thể làm rõ nếu cơ quan pháp luật tiếp cận và khai thác đầy đủ nội dung.
Bài và ảnh: CÔNG MINH