Ông là một vị tướng, là tư lệnh của nhiều đơn vị nổi tiếng thời đánh Mỹ, hẳn nhiên rồi. Chiến trường miền Đông Nam bộ là nơi thử lửa của người lính trận. Ông không có ý định làm tướng nhưng cuộc chiến tranh chống Mỹ gay go ác liệt đã tạo nên bản lĩnh của một người chỉ huy ở trong ông. Ông cho rằng đánh giặc không phải là cái nghiệp của ông, thời binh lửa nó tạo ra tôi như thế. Mười bốn tuổi, tôi bỏ nhà bỏ làng đi theo kháng chiến, theo Đảng, theo Bác đánh đuổi cho được “hai đế quốc to” thì mình cũng đã già mất rồi. Bây giờ buồn, vui lẫn lộn nhưng có điều này thì lạ lắm: Đất nước hòa bình được 33 năm nhưng những kỉ niệm về chiến tranh thì tôi không bao giờ quên, chiến trường miền Đông Nam bộ là máu thịt của cuộc đời tôi, hàng ngàn người lính của D800, của Trung đoàn 4 ngã xuống có một ý nghĩa lịch sử lớn lao lắm, ấy thế mà tôi không tài nào ghi chép lại hết được, thời gian đối với tôi không còn bao nhiêu nữa.

Thấu cảm hết những lời tâm sự của ông, tôi cũng không nén nổi được lòng mình bởi chính tôi cũng là một người lính đi sau hàng quân của ông gần ba thập kỉ và cùng ông trở về trong ngày đại thắng của dân tộc.

Viết về cuộc đời binh nghiệp của ông, Thiếu tướng Nam Hưng, tôi không tài nào quên được thời khắc Mậu Thân 1968-thời khắc lịch sử đẫm máu ấy đã trôi qua hơn 40 năm. Khoảng tháng 11-1967, đồng chí Phân khu trưởng Phân khu 4 triệu tập Ban chỉ huy trung đoàn của ông về Suối Cả. Nhiệm vụ mà họ phải thực thi lúc này là đánh tê liệt các mục tiêu như Liên trường Thủ Đức, nhà máy nhiệt điện Thủ Đức, đánh sập chân cầu Đồng Nai… Ông cho đấy là một nhiệm vụ quá lớn, lại nằm ngoài địa bàn hoạt động của đơn vị mình. Cả Ban chỉ huy trung đoàn không một ai thông thuộc các mục tiêu này. Trong lúc đó kẻ địch luôn luôn đề phòng cảnh giác, chúng cắt cử lính tuần tra bảo vệ rất gắt gao, ngay cả tuyến đường sông cầu Đồng Nai bắc thông qua hướng Sài Gòn, cứ vài phút lại có một chuyến bo bo canh giữ. Muốn tiếp cận mục tiêu cần phải có sự điều nghiên thận trọng, vẽ bản đồ vị trí thực địa chính xác, có như thế mới tránh được tổn thất.

Không ai ngoài ông, phải bí mật cải trang đi nghiên cứu thực địa. Sau khi nắm rõ tình hình, trong một đêm tối trời, ông cùng đồng chí Phó chính ủy và tổ trinh sát bí mật ra đi từ căn cứ Suối Cả xuống Tam An qua Long Thành. Hôm sau, vượt sông Đồng Nai qua cù lao Long Phước Thôn, vượt luôn vào bưng sáu xã. Họ đã móc nối được với cơ sở ở đây. Liên trường Thủ Đức rất rộng. Bộ phận trinh sát ém quân kĩ lưỡng trong các lùm cây. Chỉ trong vài ngày, các chiến sĩ đã vẽ chính xác khu vực này. Đêm và rạng ngày 31-1-1968, sân bay Biên Hòa, tổng kho Long Bình cùng các vùng lân cận súng nổ vang như pháo Tết đón Giao thừa. Ông và các trinh sát đứng ở bìa sông Đồng Nai đón Tiểu đoàn 2 mà lòng như lửa đốt. Gần sáng cả đơn vị mới lên được bờ. Chưa kịp triển khai đội hình đánh vào Liên trường Thủ Đức thì chạm trán với địch ngay dọc hành lang xa lộ, ta quần nhau với chúng từ sáng tới chiều, đơn vị hi sinh và bị thương hơn 20 đồng chí. Chờ đêm xuống, cả tiểu đoàn cắt ruộng về vùng bưng sáu xã. Hàng trăm chiến sĩ kiên cường bám trụ ở đây suốt ba tháng ròng, ngày tản ra sông rạch, đêm tổ chức đánh địch trên xa lộ. Đồng bào ở các xã Tăng Nhơn Phú, Long Trường, An Phú… cứ đêm đêm lại đem gạo, thực phẩm, dầu lửa tiếp tế cho quân Giải phóng.

Kẻ địch rất mạnh, Tiểu đoàn 2 của tôi chiến đấu đơn thương độc mã trong gọng kìm của nhiều đơn vị địch, anh em hi sinh và bị thương gần hết. Ngay cả Tiểu đoàn 1 đánh vào sân bay Biên Hòa, đánh cầu Đồng Nai, Tiểu đoàn 3 đánh vào tổng kho Long Bình… anh em đồng đội trở về cũng không còn được bao nhiêu. Mãi đến trung tuần tháng 3 năm 1968 tôi mới về đến căn cứ, cuộc trở về cùng 30 thương binh phải khiêng cõng vượt sông Đồng Nai về Long Thành, rồi bí mật theo đường 15 mới thoát khỏi vòng vây truy bức gắt gao của địch.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đồng loạt đánh vào Sài Gòn, Huế và 99 thành phố, thị xã trên toàn miền Nam đã gây một tiếng vang lớn trên thế giới, buộc địch phải ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pa-ri, công nhận vai trò của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, đơn phương tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc. Phải sáu năm sau ta mới hoàn thành giải phóng, đấy là một tất yếu lịch sử mà cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 như một tiền đề, một biến chuyển lớn của cách mạng miền Nam. Cuộc chiến đấu ấy thật quyết liệt và hi sinh không thể nào tả xiết. Những gì mà Thiếu tướng Nam Hưng nếm trải qua 50 năm cầm súng, từ một cậu bé 14 tuổi ra đi theo cách mạng đến chỉ huy Tiểu đoàn D800 anh hùng, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 4, Trung đoàn Đồng Nai, đến Tư lệnh mặt trận 779 rồi Chỉ huy trưởng tỉnh đội Bà Rịa-Vũng Tàu, nơi dừng chân cuối cùng trước khi kết thúc cuộc đời binh nghiệp. Bây giờ ông trở về đời thường mà theo như ông nói: “Mình sống sót cho đến tận ngày hôm nay cũng là mãn nguyện lắm rồi, chỉ tiếc một điều, tiếc lắm mà không sao thực hiện được, đó là ghi chép lại những gì đã qua của cuộc chiến đấu ấy. Nó bi hùng lắm và Mậu Thân 1968 như một bài ca bất tử”…

Nguyễn Hoài Nhơn