Bùi Quang Thanh từng là lính trận thời chống Mỹ cứu nước, thuộc Sư đoàn 10, Quân giải phóng Tây Nguyên. Anh, nói theo cách dân dã là hạt gạo trên sàng, may mắn sống sót qua thời đạn bom khốc liệt và đói khát triền miên. Đồng đội anh biết bao người đã ngã xuống nơi chiến trường gần, chiến trường xa. Chiến tranh vẫn là nỗi ám ảnh đối với những cựu binh đã từng lăn lóc trận mạc như anh. Hơn thế, anh là nhà thơ thì những hồi ức trận mạc thấm đẫm máu và mồ hôi càng thẳm sâu, nhức buốt.
Có mùa thu hòa bình đầy hụt hẫng trong anh, khi trước mắt hiện lên hình ảnh “Sừng sững tượng đài chiến thắng/đìu hiu dáng mẹ lưng còng”. Viết được thế là chân thật, là hiểu được giá trị đích thực của chiến thắng. Cái cao lớn hùng vĩ của tượng đài chiến thắng đặt bên sự hiu hắt của dáng mẹ lưng còng mang nhiều ý nghĩa xã hội sâu sắc. Và, câu thơ buồn như lời hương khói cất lên từ nước mắt của thời hậu chiến: “Cuối vườn thu với bay từng sợi nắng/ rứt gì lòng mẹ? Thu ơi!/ Khói hương thơm đến lạnh người/ Ngọn khói: tóc mây/ Chân hương: nguồn cội” (Lời hương khói).
Đất nước Việt Nam này, sau các cuộc chiến tranh dằng dặc có biết bao người mẹ, người vợ có con, có chồng không trở về. Bởi thế, lời khói hương cũng là lời hỏi xót xa của mẹ: “Sao con là ráng mây hun hút cuối tầm/ Là ngọn buốt thổi phơ thêm mái tóc” (Lời hương khói). Bùi Quang Thanh có cái nhìn sâu và đau vào chiến tranh; cái nhìn ít hào quang rạng rỡ mà nhiều hơn những âm u xoay xiết. Hoài niệm chiến trường là một phần quan trọng của thơ anh. Với hình tượng người lính hy sinh làm trung tâm, thơ Bùi Quang Thanh đóng góp cho dòng thơ chiến tranh một số tác phẩm khá chân thật và xúc động. Ngoài “Lời hương khói” được giải thưởng Văn nghệ Quân đội anh còn có “Lời ru đồng đội”, “Hà ơi” và “Đêm A Lưới”. Có lẽ, chỉ những người lính trận sau chiến tranh trở về những cánh rừng xưa từng tơi bời bom đạn, sặc mùi chết chóc mới ru đồng đội thế này:
Rễ cây thay tóc trên đầu
Bạn đau mối đốt, mình rầu cỏ ăn
Hai thằng hai nửa tấm tăng
Vội vàng đồng đội đặt nằm cạnh nhau
Chiến trường chuyển hướng về đâu
Đêm dài dằng dặc rừng sâu hai mồ
Khói hương hun hút đợi chờ
Lá rơi lấp lối sương mờ chốn mong…
(Lời ru đồng đội)
Đấy là những câu thơ không nghĩ ra được mà nó được bật ra từ tâm thức, tâm linh thăm thẳm của con người. Đấy là thơ của cảm xúc, của tâm trạng, của sự từng trải cuộc sống; câu thơ được đổi bằng máu và nước mắt của đồng đội và của chính mình.
Hình như có một sự liên thông nào đó giữa người chết và người sống. Thơ Bùi Quang Thanh viết về các liệt sĩ gần với lời gọi hồn da diết, nó làm những thi khúc buồn đẫm chất bi thương. Có cảm nhận như anh đang chuyện trò với người đã khuất: “Chẳng hiểu sao mỗi lần anh đến thăm/ Hoa cỏ may níu dày hơn một chút/ Những hạt ngâu màu buồn không chịu được/ Cứ rưng rưng như muốn nói điều gì”… (Hà ơi).
Trong tâm tưởng nhà thơ còn đó một cuộc chiến tranh đầm đìa máu nóng. Khi ở trên mặt đất anh thấy nó đã đành, đến khi bay ở giữa bao la mây trời, cái cuộc chiến nhiều hy sinh mất mát ấy vẫn hiện lên mồn một:
Trông vời trắng lóa nghĩa trang
Bao nhiêu đồng đội xếp hàng vô danh
Trường Sơn hai mái xanh xanh
Trăm ngàn vết sẹo ngỡ lành-lại đau
(Viết giữa lưng chừng)
Bùi Quang Thanh không hề cường điệu hóa sự mất mát hy sinh trong những cuộc chiến tranh giải phóng đất nước vừa qua. Từ Bắc vào Nam, ở đâu cũng có nghĩa trang liệt sĩ, hàng chục nghìn nấm mộ nằm bên nhau bạt ngàn trắng lóa. Vết thương chiến tranh dẫu đã liền sẹo vẫn còn nhức buốt đớn đau. Nỗi đau ấy chưa tàn trong lòng những người đàn bà có chồng con ra trận không về và có ở cả trong những linh hồn bất tử: “Sấp ngửa đồng tiền. Âm dương hòa hợp/ Con nằm đây. Con đợi mẹ lâu rồi/ Bọc đất nâu như hài nhi khát sữa/ Riết vào lòng bật tiếng nấc à ơi” (Đêm A Lưới).
Bùi Quang Thanh là một trong những người cầm bút đau đáu với đề tài chiến tranh và anh đã có những bài thơ xúc động. Tập “Mật ong vàng lũng núi” là một “tuyển thơ” của anh với gần một trăm bài thơ được chia làm 4 phần, thuộc nhiều đề tài, nhưng phần thơ chiến tranh vẫn “nặng” hơn cả. Cảm xúc và chuyện trong thơ anh là cảm xúc và chuyện thật, cái tình-cái sự được chắt ra từ cuộc sống, nó là một phần của dĩ vãng bi tráng mà anh đã nếm trải với tư cách là một người lính trận mạc. Thắp lên từ những hoài niệm chiến tranh, thơ Bùi Quang Thanh có lúc như những nén hương dâng lên đồng đội đã hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc. Niềm tự hào nhiều lúc bị chìm khuất sau nỗi đau chưa vơi cạn của những người mẹ, người vợ anh hùng và của những người lính sống sót sau cuộc chiến, nên tránh sao được sự ngậm ngùi “khói hương thơm đến lạnh người”.
(Nhân đọc “Mật ong vàng lũng núi” của Bùi Quang Thanh)
Nhà thơ NGUYỄN HỮU QUÝ