Sống giữa đại ngàn với hệ thống khe suối chằng chịt nhưng không ít người dân vùng đất “4 yên” (Yên Na, Yên Tĩnh, Yên Hòa và Yên Thắng) của huyện Tương Dương (Nghệ An) bấy lâu nay chẳng được bình yên mà triền miên trong cơn “khát”…
Nước không uống được
Từ bản Khe Bố (xã Tam Quang, huyện Tương Dương, Nghệ An), theo tỉnh lộ 748, chúng tôi tìm đến vùng đất “4 yên”. Cách đây mấy năm, khi con đường này chưa được thi công, có dịp qua đây, thấy sông Huổi Nguyên trong xanh uốn lượn giữa đại ngàn hùng vĩ. Con sông này phát nguyên từ dãy Pù Huống, đi vào đất Tương Dương, qua xã Nga My, rồi đến xã Yên Hòa. Kế đó, nó đến bản Coọc (Yên Hòa), tiếp nhận thêm nguồn nước của khe Chà Hạ và khe Nậm Ngân để trở thành sông Huổi Nguyên. Từ đây, sông chảy theo ranh giới hai xã Yên Na và Yên Thắng rồi hợp lưu với sông Lam ở bản Đình Tiến (Tam Đình). Dọc sông Huổi Nguyên và toàn bộ hệ thống khe suối vùng này khá dồi dào trữ lượng vàng sa khoáng. Lần trở lại này, mặc dù qua báo chí được biết vùng đất này đang bị “đại náo” bởi “vàng tặc” nhưng chúng tôi vẫn không khỏi bất ngờ bởi mức độ tàn phá của việc khai thác vàng ồ ạt. Lòng sông ngổn ngang, bề bộn, dòng nước ngầu đục len lỏi giữa cơ man nào bùn đất, sỏi đá.
 |
|
Khai thác vàng sa khoáng làm ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng
|
Ghé thăm các bản làng người Thái nằm dọc sông Huổi Nguyên, qua những bãi khai thác vàng bị đào đi xới lại nham nhở, thỉnh thoảng chúng tôi bắt gặp những chiếc hố nông hình tròn, có đường kính từ 50-70cm. Dưới đó là một làn nước nhờ nhờ nổi đầy váng, thỉnh thoảng dân bản đem can nhựa hoặc xô ra lấy nước mang về dùng. Hỏi ra, chúng tôi được biết hệ thống ống dẫn nước tự chảy thuộc dự án của Chương trình 135/CP, được lắp đặt từ năm 2001- 2002 song do một số nguyên nhân nên đã bị hư hỏng khá nhiều, nước không thể về hết các bể chứa. Trong khi đó, sông suối bị ô nhiễm nặng nề bởi nạn khai thác vàng, bà con các bản dọc sông, suối không còn cách nào khác là ra cạnh bờ suối, bãi sông đào tạm một cái giếng” vừa nhỏ, vừa cạn để nước bên ngoài thẩm thấu, gạn đi phần nào bùn đất rồi lấy về phục vụ sinh hoạt, từ đun nấu đến tắm rửa, giặt giũ.
Gặp chị Lương Thị Khoa, bản Trung Thắng (Yên Thắng) đang lấy nước tại giếng của mình, chị cho biết: “Dân bản phải đào hố lấy nước như thế này khoảng một năm nay rồi, cả bản chỉ còn một bể có nước nhưng đi lấy xa lắm, lại đông người phải chờ rất lâu. Chưa bao giờ chúng tôi phải khổ vì thiếu nước sạch như thế này”.
Tại trung tâm xã Yên Thắng, cạnh trụ sở UBND xã có một tổ thợ xây dựng từ dưới xuôi lên thi công công trình trạm y tế xã. Tiếp xúc với người phụ trách hậu cần, anh cho biết, cũng như dân bản, anh phải ra bãi sông đào “giếng” để bơm về, rồi tiếp tục để nước đi qua hệ thống lọc. Thế nhưng, lúc đun sôi để nguội, nước vẫn đầy váng, dưới ấm cặn đọng từng lớp, đôi khi uống còn ngửi thấy mùi dầu. Một số thợ sợ cảnh “rừng thiêng, nước độc” đã bỏ về xuôi.
Người dân bản Trung Thắng còn cho biết thêm, cách đây ít lâu, bà còn có khe Chon để chiều chiều ra tắm rửa, nhưng nay khe Chon cũng đã bị đào xới để khai thác vàng, nước đã có dấu hiệu vẩn đục, tắm xong có cảm giác ngứa nên không mấy ai ra nữa. Một cán bộ y tế xã Yên Thắng cho biết: “Gần đây, số lượng người mắc bệnh liên quan đến đường ruột, mắt và bệnh ngoài da tăng lên đột biến”.
Cá…Không ăn được!
Rời bản trung tâm xã Yên Thắng, chúng tôi ngược lên bản Xốp Khấu. Gần trưa, trẻ con, trung niên và cả người già trong bản, kẻ đi xe máy, xe đạp, người đi bộ mang can nhựa tới bể đầu bản lấy nước. Anh Kha Văn Hùng cho biết: “Cả bản được Nhà nước đầu tư xây dựng 8 bể chứa nước nhưng nay chỉ còn một bể là có nước chảy về, 7 bể còn lại khô trơn”. Ở đây địa hình dốc, không có bãi bằng như dưới bản Trung Thắng nên bà con không thể đào giếng lấy nước, hàng trăm người đành chen chúc nhau tại một bể nước. Giờ cao điểm thường từ 17- 20 giờ, lúc này mọi người từ nương rẫy, khe suối trở về, ai cũng có nhu cầu lấy nước đun nấu, tắm rửa và giặt giũ.
Chị Vi Thị Lan bức xúc kể: “Khe suối đục ngầu do máy to, máy nhỏ đào xới tìm vàng. Nước đục đã đành, máy móc còn thải dầu ra nguồn nước, dùng chất thủy ngân để xử lý quặng đến con cá cũng không sống nổi nữa. Các con khe ngày trước nhiều cá lắm, chồng tôi đi rẫy về, đem lưới xuống chài chừng 1 tiếng thì có cá ăn đến mấy ngày. Nay không biết chúng bỏ đi hay đã chết hết, mà chài được giờ cũng không ai dám ăn cá nữa”.
Chúng tôi tiếp tục hành trình lên xã Yên Hòa, các khe suối vẫn chung một màu đỏ quạch. Vào thăm gia đình một người quen ở bản Xiềng Líp, ông cho biết hầu hết các bể nước được xây dựng theo Chương trình 135 ở đây đã hết nước từ lâu. Khổ nhất là những hộ ở cheo leo bên sườn núi, bê được can nước lên đến nơi, rồi lại bê lên nhà sàn, mệt không thể nào kể hết. Dạo một vòng khắp bản, thấy các bể nước công cộng đều được rào lại bằng tre nứa, bởi bể không còn nước, rào lại để đề phòng trẻ con vào nghịch phá.
Và…Ngày mai?
Trao đổi với bà con Xiềng Líp, chúng tôi biết phần nào nguyên nhân vì sao nước không còn chảy về các bể. Số là hệ thống ống dẫn nước tự chảy của bản được lắp đặt từ đầu nguồn khe Líp, lâu nay việc khai thác vàng dọc khe đã làm cho đường ống bị rò rỉ và đứt gãy nhiều chỗ nên dòng nước bị ách tắc. Từ bản đến chỗ đứt gãy đầu tiên của hệ thống đường ống chừng 7km, phải đi qua vô số điểm khai thác vàng sa khoáng của các công ty được cấp phép có, của người dân địa phương cũng có. Dọc khe, nhiều đoạn đường ống đã nằm lộ thiên, thậm chí có những đoạn bị các “phu vàng” bới móc tan hoang, đường ống nằm chơi vơi, lơ lửng giữa hai ụ đất có thể đứt gãy bất cứ lúc nào. Những đoạn thõng xuống, có nguy cơ đứt gãy cao được các “phu vàng” chống lên bằng cây rừng.
Đến vị trí bị đứt đầu tiên của đường ống, chúng tôi thấy do “vàng tặc” đào khoét làm mất điểm tựa của đường ống kim loại nên hệ thống bị đứt gãy ở vị trí nối khớp. Người bạn dẫn đường cho biết thêm rằng, nếu tiếp tục ngược lên còn có một số đoạn bị đứt gãy và hư hỏng nữa.
Trở về bản Xiềng Líp khi mặt trời đã đứng trên đỉnh đầu, lại phải chứng kiến cảnh người dân tất bật trong việc lấy nước, can, xô lỉnh kỉnh, cảnh tượng quen thuộc của không ít bản làng vùng “4 Yên”. Trên đường ra thị trấn Hoà Bình, qua bản Hào (Yên Hoà), bản Na Pu, Na Khốm, Xốp Pu (Yên Na), rồi ghế lên bản Văng Cuộm, Pa Tý, Cành Toóng (Yên Tĩnh) tôi lại tiếp tục thấy những bãi vàng bề bộn và ầm ĩ tiếng động cơ các loại, khe suối tan hoang, làn nước đỏ quạch…
Rời đất phủ Tương, trên đường về, tai tôi luôn văng vẳng lời than phiền của những người dân: “Miền tây xứ Nghệ này có bao nhiêu khe suối lớn nhỏ, vậy mà người dân vẫn khát triền miên vì “vàng tặc”. Ai giúp chúng tôi bây giờ?”…
Bài và ảnh: Công Kiên