QĐND - Trải qua thời gian, hát then đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu, là linh hồn trong đời sống văn hóa của bà con các dân tộc: Tày, Nùng, Thái ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Nhưng để hát then phát triển đến ngày hôm nay, một phần lớn nhờ công của những con người đã gìn giữ, thổi hồn vào những làn điệu hát then độc đáo.
Then “bay sô”
Đến Chiêm Hóa (tỉnh Tuyên Quang) hỏi nghệ nhân hát then Hà Văn Thuấn thì dường như ai cũng biết. Nhà ông Thuấn ở xã Tân An, một căn nhà sàn rộng, đẹp, thoáng sạch. Có lần, tôi được đến nhà ông cùng những người bạn, chuyện cả ngày với ông về then, được ông dẫn đi quanh làng, gặp người nọ chơi đàn tính, người kia múa trong đội then gia đình mà mặt trời khuất sau núi lúc nào không hay. Ông Thuấn trở thành chủ nhà hiếu khách khi ngỏ lời: “Nếu nhà báo không chê nhà đồng bào đơn sơ thì nán lại đêm nay, nhấm nháp một chút rượu, nghe điệu hát then trong không gian của núi rừng có hay hơn trên sân khấu nhiều không…”. Chẳng phải bàn, cả nhóm đồng thanh nhận lời! Và rồi suốt cả tối hôm ấy, những con người từ Thủ đô náo nhiệt đã có cơ hội cảm nhận nhận xét sâu xa đầy ý nghĩa mà các nhà nghiên cứu truyền miệng, rằng tiếng then như làm cho con người quên ăn, chim ngừng hót, giai điệu của hát then mênh mang, chứa đựng nỗi lòng…
 |
Tiết mục biểu diễn hát then, đàn tính tại liên hoan. Ảnh: HUY ĐỨC |
Trong lần trở lại Tuyên Quang dự Liên hoan nghệ thuật hát then-đàn tính lần thứ V, chúng tôi may mắn gặp lại nghệ nhân Hà Văn Thuấn, nhưng không may là ông lại vừa lặn lội từ Chiêm Hóa ra thành phố Tuyên Quang, ý định vào nhà ông, được nghe trong chính không gian then ở ngôi nhà của ông không thực hiện được. Vậy là phải đặt vấn đề “mượn” ông Thuấn một buổi, bởi hiện thời ông đang dưới sự "quản lý nghiêm ngặt" của Trung tâm Văn hóa-Thông tin tỉnh Tuyên Quang, để đưa ông về với “bối cảnh” đồi núi, nhà sàn, suối nước… Ông Trần Hải Quang, Giám đốc Trung tâm Văn hóa-Thông tin tỉnh Tuyên Quang “nhắc nhở”, cụ Thuấn là “đắt sô” lắm, nên các nhà báo bố trí đưa cụ đi thì đúng giờ đưa cụ về, lịch tập luyện cho nhóm trình diễn then của cụ đã sắp xếp, nhỡ nhàng thì lại ảnh hưởng đến các nhóm khác. Trên xe, suốt chặng đường hơn 10 cây số, nghệ nhân Hà Thuấn hát hết bài cổ đến sáng tác then mới như: “Văn hóa giao thông”, “Đêm qua em mơ gặp Bác Hồ”… vang rộn cả xe. Cô cháu gái của nghệ nhân kể, từ sáng tinh mơ thức dậy là ông đã hát. Cũng lạ, trời thương cho ông có sức khỏe, gần 80 tuổi mà rong ruổi hết huyện nọ, xã kia để trình diễn và truyền dạy then. Ông Thuấn cho biết, ngoài trình diễn làm lễ chúc thọ cho người già, cúng năm mới, mùa cốm mới (sang Thu), mừng tuổi cho con trẻ… quanh năm không hết việc với then, then như ngấm vào máu thịt. Ngoài truyền dạy hát then cho con cháu trong nhà, trong dòng tộc, nhiều năm nay ông còn nhận lời đi dạy cho các xã bên, hoặc các câu lạc bộ ở tỉnh khác. Chú tâm nhất vẫn là truyền dạy cho con cháu trong nhà, dăm năm trước, hình ảnh nghệ nhân Hà Văn Thuấn dạy hai cháu gái đàn hát then, thì nay hai cô cháu gái đã đi học xa. Bù lại, ông chọn được người nối nghiệp tổ nghề, đó là con trai của người anh cả và 4 cô cháu gái trong họ đã yên ổn chồng con, nay yên tâm theo chú trình diễn “gánh then” gia đình.
Các nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng, nghệ nhân then phải được coi là đối tượng quan tâm đặc biệt trong chương trình bảo tồn không gian nghệ thuật hát then, đàn tính. Về bản chất, các thầy then có khi là thầy cúng kiêm nghệ sĩ dân gian. Đây là hai yếu tố tuy hai mà một hòa quyện với nhau tạo thành một hình ảnh chân thực về nghệ nhân then, một nét độc đáo mà không phải dân tộc nào cũng có. Nhưng thực tế, khi then chưa có chính sách bảo tồn, phát huy theo hình thức chuẩn mực mà các cấp chính quyền còn lúng túng bàn đi, tính lại, thì các nghệ nhân then, hình thức trình diễn then vẫn hiện hữu và có sức sống mạnh mẽ trong những không gian núi rừng, trong những cộng đồng dân tộc người Tày, Nùng, Thái ở khắp các tỉnh miền núi phía Bắc; theo chân người di cư vào Tây Nguyên, Nam Bộ… và thậm chí vươn xa tới cộng đồng những tộc người này ở các nước trên thế giới. Nếu ở Tân An, huyện Chiêm Hóa (Tuyên Quang) nổi lên có gia đình trình diễn then của nghệ nhân Hà Văn Thuấn, thì ở xã khác như Xuân Quang có nghệ nhân Hà Ngọc Cao. Còn tại phường Chi Lăng, TP Lạng Sơn lại có "thầy then" Hoàng Văn Tâm nổi danh sinh năm 1981…
Băn khoăn chuyện bảo tồn
Muốn bảo tồn then cổ cần bảo tồn nguyên bản không gian của then như nó đang tồn tại và diễn ra trong đời sống. Không thể bảo tồn nếu dẹp bỏ nghề của các “ông then”, “bà then” bởi họ chính là linh hồn của then. Vì vậy, nhiệm vụ của những người làm văn hóa cần phải tôn vinh những người “giữ then” như giữ lửa, có sự lựa chọn để hạn chế những sắc thái mê tín không còn phù hợp với suy nghĩ, tình cảm con người hiện nay. Việc tôn vinh gia đình, dòng họ có truyền thống hát then cũng rất quan trọng... Đó là hầu hết quan điểm của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu văn hóa đưa ra tại cuộc hội thảo quốc tế về bảo tồn và phát huy giá trị di sản hát then, trong khuôn khổ liên hoan vừa qua.
 |
Nghệ nhân hát then Hà Văn Thuấn (áo đỏ). Ảnh: HUY ĐỨC
|
Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Tô Ngọc Thanh, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian, khẳng định: “Then Tày, Nùng, Thái của Việt Nam xứng đáng được đề cử để UNESCO công nhận là Di sản văn hóa cần bảo vệ khẩn cấp vì những nghệ nhân nắm vững vốn văn hóa quý báu này không còn mấy người nữa”. Ý kiến của GS Tô Ngọc Thanh đã “chạm” phải mối băn khoăn của các nhà nghiên cứu đang hoàn thiện hồ sơ đệ trình UNESCO công nhận “Then Tày, Nùng, Thái của Việt Nam” vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan, nguyên Phó viện trưởng Viện Âm nhạc, đưa ra quan điểm, lập hồ sơ “Then Tày, Nùng, Thái của Việt Nam” là đề nghị UNESCO công nhận tín ngưỡng then. Tuy nhiên trong đó chúng ta cũng nêu bật những ứng dụng của then với cách hát then, cách chơi đàn của các "thầy then" đã có những ảnh hưởng sâu sắc tới các nghệ sĩ hát then, đàn tính hiện nay trên sân khấu then với những sáng tác mới. Cuộc song hành nghệ thuật âm nhạc của lễ then với nghệ thuật âm nhạc của hát then-đàn tính chắc chắn không làm ảnh hưởng xấu đến nhau mà nó còn có sự tương tác, bổ trợ nghệ thuật cho nhau. “Theo chúng tôi, tín ngưỡng then tự nó đã có đầy đủ khả năng để bảo tồn. Bởi lẽ trong cuộc sống của con người hiện đại, nhất là con người ở những nước đang phát triển như Việt Nam thì cái may, cái rủi trong kinh doanh, khi thăng lúc trầm trong sự nghiệp luôn đeo bám họ, vì vậy họ vẫn cần một tín ngưỡng cùng song hành. Một quá trình lịch sử đã đủ để chúng ta nhận biết: Tín ngưỡng then chưa bao giờ mất đi trong đời sống của đồng bào Tày, Nùng, Thái. Nếu nói cần bảo tồn then thì có một điều quan trọng: Chúng ta cần có một thái độ trân trọng là đủ”, nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan nêu ý kiến.
HÀ TUẤN QUỲNH