 |
Tiến sĩ Nguyễn Việt Hùng |
“Bác sĩ nhìn đâu cũng thấy vi trùng” - đó là câu nói vui cửa miệng khi người ta bàn về nghề bác sĩ. Nhưng theo một điều tra của tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Việt Hùng thì ngược lại, có tới hơn 60% bác sĩ hiểu chưa đúng về chống... vi trùng. Anh cũng là trưởng khoa chống nhiễm khuẩn đầu tiên ở Việt Nam, người đã đi hơn 40 tỉnh, thành phố tập huấn hàng ngàn nhân viên y tế, thực hiện 22 đề tài khoa học và chương trình hợp tác quốc tế về lĩnh vực này, tham gia ê-kíp đầu tiên chống các đại dịch SARS, H5N1. Anh đã được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen về công tác chống nhiễm khuẩn bệnh viện...
Triết lý... “bàn tay sạch”
P.V: Thưa anh, tại sao khi nói đến chống nhiễm khuẩn bệnh viện ở nước ta hiện nay, giới chuyên môn thường rất ca ngợi chương trình “bàn tay sạch” mà anh cùng cộng sự đã nhiều năm theo đuổi?
TS Nguyễn Việt Hùng: Lúc đầu, tôi cũng như nhiều người thường suy nghĩ đơn giản rằng bàn tay bác sĩ là sạch hơn bàn tay người bình thường. Bởi bác sĩ nắm vững chuyên môn, có ý thức phòng bệnh tốt hơn, như người ta vẫn nói “bác sĩ nhìn đâu cũng thấy vi trùng” cơ mà. Thế nhưng, thực tế không hẳn như vậy. Kết quả xét nghiệm trên bàn tay nhân viên y tế tại Bệnh viện Chợ Rẫy (TP Hồ Chí Minh) cho thấy, trung bình mỗi bàn tay có tới gần... 270.000 vi khuẩn. Chỉ cần dùng biện pháp vệ sinh thông thường là rửa tay thì có thể giảm hầu hết nguy cơ nhiễm khuẩn cho người bệnh. Ngay từ năm 1847, ở Áo, giới y học đã chứng minh rửa tay làm giảm tỷ lệ tử vong do nhiễm trùng sản khoa từ 17% xuống còn 5%. Vậy mà, qua điều tra, khảo sát của chúng tôi tại hơn 20 bệnh viện trong cả nước, hầu hết y, bác sĩ đều không rửa tay trước khi khám chữa bệnh. Chúng tôi đã tiến hành điều tra 2.000 nhân viên y tế và “sửng sốt” nhận thấy: trong số 100 cơ hội y học cần phải rửa tay thì họ chỉ thực hiện 11 cơ hội. Nhiều nơi họ còn bỏ qua cả 100 cơ hội. Nghĩa là không hề rửa tay. Đó cũng là lý do mà “rửa tay sạch” đã trở thành một đề tài khoa học, một giải pháp hiệu quả trong chống nhiễm khuẩn bệnh viện hiện nay.
- Tại sao một vấn đề đơn giản như “rửa tay” mà giới y, bác sĩ lại không thực hiện được?
- Vấn đề nằm ở chỗ nhận thức về chống nhiễm khuẩn bệnh viện ở ngay các nhân viên y tế, thậm chí là một số lãnh đạo bệnh viện cũng chưa đầy đủ... Hiện nay, ở nhiều nước tiên tiến trên thế giới, bác sĩ muốn hành nghề phải được đào tạo về chống nhiễm khuẩn, những nhân viên về chống nhiễm khuẩn phải có chứng chỉ chuyên ngành. Ở Việt Nam thì chưa có trường, lớp nào đào tạo về lĩnh vực này cả. Cộng với đó là bất cập về xây dựng, thiết kế hệ thống bệnh viện. Hầu hết bệnh viện ở nước ta không có bồn rửa tay, phương tiện rửa tay tại phòng bệnh nhân nên bác sĩ muốn rửa cũng... bó tay!
Nỗi niềm sau con số 94%
P.V: Bệnh viện Bạch Mai là nơi đầu tiên trong cả nước thành lập Khoa Chống nhiễm khuẩn và anh đã trở thành bác sĩ có “thâm niên” theo dõi công việc này nhiều nhất ở Việt Nam. Duyên nợ nào đưa anh đến với “nghề chống nhiễm khuẩn”?
TS Nguyễn Việt Hùng: Nếu bảo là tôi yêu thích, say mê nghề này ngay từ đầu thì đó là một sự giả dối theo kiểu... báo cáo thành tích. Thật ra, tôi đến với cái ghế chủ nhiệm khoa chống nhiễm khuẩn như một “duyên nợ”. Năm 1998, đang là nghiên cứu sinh thì tôi nhận được lời đề nghị về Bạch Mai làm trưởng khoa chống nhiễm khuẩn. Người ta phát hiện ra tôi đã có một thời gian công tác tại Viện nghiên cứu y học quân sự và được dự một lớp học quốc tế về chống nhiễm khuẩn bệnh viện. Đứng trước lời đề nghị đó, nói thật là tôi rất phân vân vì có khá nhiều ý kiến phản đối của bạn bè. Nhưng, tôi đã nghĩ đến cha tôi. Ông là cán bộ lão thành 60 năm tuổi Đảng. Với ông, triết lý cuộc sống không phải là tiền bạc hay danh vọng mà là sống cuộc đời có ý nghĩa. Ông thường nhắc tôi câu nói đã nằm lòng cả một thế hệ của Pa-ven Coóc-sa-ghin “đời người chỉ có một lần” và dặn tôi “Làm việc ở nơi nào đó người ta cần mình thì tốt hơn”. Tôi đã nhận “nghề nguy hiểm” với một niềm tin rằng công tác chống nhiễm khuẩn bệnh viện sẽ trở thành mối quan tâm lớn của ngành y tế sau này.
- Và bây giờ, điều đó đã trở thành hiện thực phải không anh, khi mà theo số liệu từ hội nghị toàn quốc về chống nhiễm khuẩn bệnh viện do Bộ Y tế tổ chức vào ngày 29-12-2006 vừa qua, hiện 94% bệnh viện trong cả nước đã có khoa chống nhiễm khuẩn?
- Đối với các nước có nền y học hiện đại, việc mỗi bệnh viện cần phải có một khoa chống nhiễm khuẩn là chuyện đã có cách đây từ những năm 50, 60 của thế kỷ trước. Nhưng ở Việt Nam, công tác chống nhiễm khuẩn mới được ghi vào quy chế chính thức của Bộ Y tế từ năm 1997 và thực tế triển khai thì rất “ì ạch”. Từ năm 1997 đến nay, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành tới 3 chỉ thị về công tác chống nhiễm khuẩn bệnh viện. Sau 10 năm ban hành quy chế nói trên, đúng là đã có tới 94% bệnh viện thành lập khoa chống nhiễm khuẩn nhưng đa số hoạt động chưa mấy hiệu quả. Nhiều nơi khi tôi đến, họ ngại triển khai vì nó mang lại gánh nặng cho bệnh viện hơn là mang lợi ích trước mắt. Tôi còn nghe kể chuyện một đồng nghiệp của tôi ở bệnh viện khác đã từng quyết liệt kiện cấp trên khi anh ta bị điều về “khoa chống nhiễm khuẩn”. Cũng dễ hiểu thôi vì so với các khoa khác trong bệnh viện thì ở đây thường vất vả nhất; nguy cơ lây nhiễm bệnh cao nhất mà thu nhập lại thấp nhất vì không thể “làm thêm” một dịch vụ nào cả. Vì vậy, con số 94% bệnh viện có khoa chống nhiễm khuẩn thật ra...
Phải biết hy sinh vì người bệnh
P.V: Nếu như vậy thì thực sự công tác chống nhiễm khuẩn ở Việt Nam vẫn không ổn?
TS Nguyễn Việt Hùng: Đúng là vẫn còn nhiều bất cập và... bất cập. Hiện nay, đi chữa bệnh, người dân dễ mắc thêm nhiều bệnh truyền nhiễm khác từ chính môi trường bệnh viện. Qua khảo sát của chúng tôi, tại 5 bệnh viện lớn của Hà Nội cho thấy, tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện xấp xỉ 10%. Hầu hết các bệnh viện ở nước ta lại được xây dựng từ những năm 1950, tuổi trung bình là 45 năm nên cơ sở hạ tầng xuống cấp, chúng ta lại xử lý chất thải bệnh viện theo kiểu “chỉ có ở Việt Nam”, còn tới 1/3 thải thẳng ra bãi rác chung. Đặc biệt, còn tới 60% nhân viên y tế nhận thức chưa đúng về chống nhiễm khuẩn. Hầu hết các bệnh viện cũng chưa thiết lập được quy định, quy trình về chống nhiễm khuẩn. Về phía ngành y tế, mặc dù đã rất nỗ lực, nhưng hiện vẫn chưa xây dựng được chuẩn quốc gia về chống nhiễm khuẩn. Chống nhiễm khuẩn vẫn chưa được đưa vào đào tạo trong các trường đào tạo y tế. Trong bối cảnh hiện nay, nhiều bệnh truyền nhiễm đang gia tăng (SARS, cúm gà, HIV…), chống nhiễm khuẩn bệnh viện đang là vấn đề thời sự, là thách thức không chỉ của ngành y tế trong nước mà còn của cả nền y học thế giới.
- Trong bối cảnh các khoa chống nhiễm khuẩn thường “xập xệ”, hữu sinh vô dưỡng như vậy, tại sao các anh vẫn “sống” và đạt nhiều thành tích, được Bộ Y tế đề nghị Thủ tướng tặng Bằng khen?
- Đó là chặng đường gần 10 năm đi tìm mô hình hoạt động khi mà cả nước chưa có “chuẩn quốc gia”. Ban đầu, gọi là “khoa” hẳn hoi nhưng chỉ có cái “nhà giặt là”. Tổ chức hoạt động ra sao, phương thức thế nào đều chưa rõ hình hài. Đầu tiên phải làm thay đổi nhận thức về chống nhiễm khuẩn, tôi đã đề nghị lãnh đạo bệnh viện thành lập Tổ kiểm soát nhiễm khuẩn và đây cũng là khoa chống nhiễm khuẩn đầu tiên trong cả nước có tổ chuyên môn phụ trách công tác này. Một năm sau, tôi lại đưa ra một đề xuất mô hình quản lý tập trung và xin nhận tất cả đồ vải, dụng cụ y tế về khoa mình quản lý. Cả hội nghị cười ồ. Một đồng nghiệp vỗ vai: “Cả cái bệnh viện này “ti tỉ” dụng cụ y tế, từng khoa quản lý mà còn lôm côm, nay mất thứ này, mai hỏng thứ kia. Ông đừng có mà ôm vào!”.
Tôi nghĩ, để chống nhiễm khuẩn, nếu việc tiệt trùng mỗi nơi làm một kiểu thì rất khó “sạch” tuyệt đối, cần phải “chuyên nghiệp hóa”. Hơn nữa, không thể để tồn tại quy trình sử dụng bông, băng, gạc quá lòng vòng, rắc rối, qua mấy lần cấp phát đưa đi đưa lại mới đem vào sử dụng. Hay chuyện cùng một thủ thuật tiêm truyền, khoa dùng nhiều, khoa dùng ít, nhiều nơi để lãng phí… Ý tưởng mới ấy vấp phải nhiều ý kiến trái chiều, họ ngại san sẻ “quyền quản lý”. May cho tôi là có được sự ủng hộ của tập thể lãnh đạo nhìn xa trông rộng mà đứng đầu là Giám đốc, GS Trần Quỵ. Sau khi sang Nhật, ông tận mắt thấy đây cũng là mô hình phổ biến ở các nước tiên tiến và quyết cho triển khai. “Tiên tiến, ra tiền thì làm. Cứ trình tập thể quyết định, tớ ký!”. Và, có tiền thật! Tôi lập phiếu trưng cầu, cho các khoa tự đề xuất mức dụng cụ y tế cần thiết cho từng ca chữa bệnh, theo quy trình chuyên môn. Rồi đề nghị tổ chức hội nghị thống nhất tìm ra một mức chung nhất và thực hiện “khoán dụng cụ y tế”. Mô hình quản lý tập trung đã giúp bệnh viện mỗi năm tiết kiệm được hàng chục ngàn thiết bị y tế; trị giá hàng tỷ đồng mỗi năm. Tôi còn đề xuất thành lập tổ hóa chất, trực tiếp quản lý, pha chế các loại hóa chất, dung dịch chữa bệnh cho toàn bệnh viện. Tôi động viên mọi người tiết kiệm, tăng năng suất lao động. Giá giặt là một ki-lô-gam đồ vải y tế 5.000 đồng; chúng tôi đã tìm cách hạ giá thành chỉ còn gần 3.000 đồng; mỗi tháng được bệnh viện thưởng hàng chục triệu đồng, tăng thu nhập cho anh chị em. Hiện mô hình hoạt động của khoa rất hiệu quả, hầu hết các bệnh viện khu vực phía Bắc đã đến học tập và đã có một số nơi áp dụng như: Viện 108, Quảng Ninh, Lào Cai… Thực ra, nếu xác định mục tiêu vì người bệnh, chữa bệnh tốt hơn thì người thầy thuốc phải biết hy sinh.
SARS, H5N1 - phòng chống từ “gốc”
P.V: Theo cảnh báo của các chuyên gia y tế thế giới, Việt Nam vẫn là một trong những điểm nóng của dịch cúm gia cầm. Với kinh nghiệm của một trong những bác sĩ đã tham gia chiến dịch chống SARS, H5N1 ở Bệnh viện Bạch Mai từ năm 2003, anh nhìn nhận như thế nào về độ nguy hiểm của dịch cúm gà hiện nay?
TS Nguyễn Việt Hùng: Trên thế giới, trong lịch sử loài người đã có 4 vụ đại dịch cúm gây chết người hàng loạt. Đầu tiên là dịch cúm 1918-1956 do vi-rút H1N1 làm chết 50 triệu người. Tiếp theo, dịch cúm 1957-1967 do vi rút H2N2 gây chết 4 triệu người. Dịch cúm 1968 đến nay do vi-rút H3N2 cũng đã gây chết 4 triệu người, dịch cúm 1977 đến nay do vi-rút H1N1 chưa thống kê số người chết. Người ta đang lo ngại vi-rút H5N1 khi biến thể sẽ trở thành sát thủ gây ra “phi vụ” thảm sát hàng loạt thứ 5 với hàng chục triệu người chết… Nhưng tất nhiên, sự biến thể đó có thể phải diễn ra trong khoảng thời gian rất dài song rõ ràng không thể đơn giản coi cúm gà là vấn đề đơn giản được. Ở Việt Nam, từ tháng 12 năm 2003 đến nay đã xảy ra 3 “làn sóng” cúm gia cầm do H5N1 với 61 tỉnh, thành phố tuyên bố có dịch, phải tiêu hủy 50/300 triệu gia cầm, 32 tỉnh thành có dịch xảy ra trên người, tổng số 93 người mắc thì có 42 người chết, chiếm tỷ lệ 45,2%. Tỷ lệ này mặc dù thấp hơn so với I-rắc, Cam-pu-chia, In-đô-nê-xi-a, Trung Quốc… nhưng cũng không phải là nhỏ.
- Dưới giác độ một chuyên gia về chống nhiễm khuẩn, anh nghĩ sao khi trên thực tế, đã qua 4 năm vào cuộc chống dịch cúm gà nhưng những hạn chế như: người dân lơ là, chủ quan; cơ quan chức năng không tiêm phòng kịp thời… vẫn cứ tồn tại như một “điểm yếu kinh niên”?
- Kiểm soát SARS, cúm gà cũng phải chuẩn bị như cho một trận đánh. Năm 2003, SARS đang là vấn đề nóng, đặc biệt nguy hiểm. Chúng tôi đã thành công nhờ mọi triển khai nghiêm ngặt, từ rửa tay đến thu gom xử lý chất thải, đồ vải, dụng cụ y tế, cách ly người bệnh… và sớm xây dựng được quy định, qui trình tổ chức thực hiện. Bạch Mai khi đó có hơn 30 bệnh nhân SARS, 41 bệnh nhân cúm gà, chiếm gần 1/2 bệnh nhân trong cả nước (cả nước có 94 bệnh nhân cúm gà, 63 SARS)… Nhờ vậy, SARS không có người chết, còn cúm gà chỉ có 8 người chết (19,5%), đạt tỷ lệ thấp nhất so với các bệnh viện khác trong cả nước. Cái tốt của phòng chống là không một nhân viên y tế và người nhà bệnh nhân nào bị lây nhiễm trong bệnh viện. Thành công ấy có lẽ cũng là nguyên nhân quan trọng để Bộ Y tế vừa tin tưởng chỉ định 13 cơ sở điều trị đại dịch H5N1 tuyến trung ương thì bệnh viện Bạch Mai là một trong những cơ sở quan trọng cùng Viện các bệnh truyền nhiễm và nhiệt đới quốc gia, 3 bệnh viện quân đội 108, 103, 175… Vừa rồi, khi tôi đi báo cáo kinh nghiệm ở Bộ Y tế Xin-ga-po, các đồng nghiệp chất vấn hơn một giờ. Họ khâm phục kinh nghiệm điều trị, phòng chống cúm gà của Việt Nam. Nhưng họ cũng rất bất ngờ và quan ngại vấn đề văn hóa, thói quen ẩm thực liên quan đến cúm gà. Gà nuôi trong nhà, trong vườn; gà ở cạnh người… là sự nguy hiểm. Đã đến lúc phải thay đổi thói quen chăn nuôi, thay đổi thói quen ăn uống cho hợp vệ sinh. Phải chăn nuôi tập trung; gà vịt chết đừng tiếc của mà giấu ăn uống. Khi giết gà phải mang găng tay, phải nấu chín. Từ bỏ thói quen ăn đồ sống, tiết canh, mút trứng sống… Riêng với ngành y tế phải sẵn sàng chuẩn bị trang thiết bị, kiến thức cần thiết cho nhân viên y tế về chống nhiễm khuẩn. Chống cúm gà thực chất là chống nhiễm khuẩn. Nếu nhân viên y tế tiếp xúc với cúm gà mà thực hiện đúng qui định rửa tay, phun thuốc; nếu cơ sở giết mổ bảo đảm vệ sinh, có đủ thiết bị tiệt trùng, sát khuẩn; nếu thường xuyên quan tâm đến chống nhiễm khuẩn thì không sợ gì cúm gà cả.
- Xin cảm ơn anh!
NGUYỄN VĂN MINH thực hiện