Tôi và có thể nhiều bạn đọc khác đều chung suy nghĩ: Ánh Dương là “nhạc sĩ của một bài”, như trường hợp nhà thơ Minh Huệ với “Đêm nay Bác không ngủ” vậy. Nhưng đến thăm nhà, mới biết Giải thưởng Nhà nước mà ông vừa được trao tặng, ngoài “Chào em cô gái Lam Hồng” nổi tiếng, còn có cụm bài hát khá phổ biến trong kháng chiến chống Mỹ: Hoa đào nở trên biên giới, Pu-chăm-chi, Dốc lòng dốc sức giải phóng miền Nam...

Duyên nghiệp

Nhạc sĩ Ánh Dương quê ở xã Sơn Hải, huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An), có anh rể là nhà văn quân đội Nguyễn Minh Châu, anh họ là Trần Ngọc Cừ, tác giả bài hát “Con cua đá” nổi tiếng một thời.

Thuở nhỏ, cậu bé Dương được cậu ruột, một người chơi Vi-ô-lông trong dàn nhạc công giáo, đưa đến nhà thờ làng Song Ngọc để học nhạc. Tại đây, cậu mới biết được “đồ, rê, mi”, mới được hát thánh ca và đó chính là khởi nguồn cho con đường âm nhạc của Ánh Dương sau này.

Năm 1953, khi vừa tròn 18 tuổi, Ánh Dương tòng quân. Vào bộ đội, ở trung đoàn 44 Nghệ An, khi đó toàn quân ta đang có đợt học chính trị nhân đình chiến ở Triều Tiên, Ánh Dương hăng lên, có ngay bài hát “Noi gương Triều Tiên chiến đấu”. Không ngờ bài hát được mọi người đón nhận nhiệt liệt, hát rất vui vẻ. Lập tức, Ánh Dương được điều lên văn công trung đoàn 44.

Thế nhưng lúc đó cả nước đang sục sôi phong trào giết giặc lập công nên chàng trai trẻ Ánh Dương nằng nặc xung phong ra tiền tuyến. Thuyết phục cấp trên mãi, cuối cùng nguyện vọng đó mới được chấp nhận. Anh được bổ sung vào trung đoàn 101 chiến đấu ở mặt trận trung-hạ Lào. Đến tháng 4-1955, Ánh Dương được điều động về văn công sư đoàn 325, sau đó được cử đi học lớp thanh nhạc của Tổng cục Chính trị, tiếp theo là lớp hợp xướng do trung tá-nhạc trưởng Triệu Đại Nguyên của Quân đội nhân dân Triều Tiên làm chuyên gia.

Đó là tháng 4-1957 và Ánh Dương bắt đầu đi vào quỹ đạo âm nhạc.

PV: Như vậy, thưa nhạc sĩ Ánh Dương, khởi đầu con đường âm nhạc của ông là thanh nhạc. Vậy ông hát có hay không?

Nhạc sĩ Ánh Dương: Tôi có giọng Ba-ri-tông, hát bè trầm! Hồi học thanh nhạc của Tổng cục Chính trị, tôi đứng trong tốp ca nam gồm các anh Quang Hưng, Trần Chất, Đoàn Thiều, Cao Xuân Trứ, Thái Quý; bè trầm gồm tôi, Trọng Khanh, Huy Cường hát những bài mà đến giờ tôi vẫn rất thích: “Hồng Hà” của Đỗ Nhuận, “Sóng Cửa Tùng” của Doãn Nho, “Tiếng hát biên thuỳ” của Tô Hải, “Hắc Long Giang” của Liên Xô trước đây... Ngoài ra, tôi còn được học với các nghệ sĩ như Quốc Hương, Tân Nhân, Tường Vi, Ngọc Dậu, Trần Chất... Sau này các anh chị đó đều rất thành công trên con đường ca hát, đều trở thành Nghệ sĩ Ưu tú, Nghệ sĩ Nhân dân. Chỉ riêng tôi...

- Học rất nhiều về thanh nhạc, nhưng cuối cùng ông lại chọn con đường sáng tác?

- Tháng 9 năm 1958, sau khi học xong các lớp thanh nhạc, văn công sư đoàn giải thể. Các đoàn văn công sư đoàn 325, 320, 367... sáp nhập thành Văn công Quân khu 4. Tôi về Văn công Quân khu 4 và được phân công làm hướng dẫn viên thanh nhạc cho đoàn và dàn dựng các tiết mục ca nhạc. Nghĩa là, từ một diễn viên, tôi trở thành một cán bộ phụ trách ca hát.

Nhưng từ các lớp học thanh nhạc đã mở cho tôi những ý tưởng lãng mạn, với khát khao trở thành một người sáng tác. Hồi đó, nhạc sĩ đối với chúng tôi là xa vời lắm, lãng mạn lắm, chứ không như bây giờ... (cười).

- Và ông đã rất liều, rất lãng mạn để cầm bút?

- Lãng mạn thật, bởi hồi đó có mấy ai dám mon men đến viết nhạc đâu. Cuối năm 1958, tôi có hợp xướng “Vinh quang quân khu ta” được anh Tô Hải phối khí, sau này trở thành màn mở đầu của các buổi biểu diễn của đoàn văn công Quân khu 4. Phấn khởi, tôi bắt tay vào sáng tác, tối tối chong đèn dầu ngồi một mình viết lách. Năm 1960 tôi viết bài “Hoa đào nở trên biên giới” được nhiều người hồi đó yêu thích. Bài hát có đoạn: “Kìa nghìn hoa đào đương đua nở/ Thắm khắp biên giới/ Có người bên suối nước trong/ Tiếng vọng bên rừng/ Nơi non ngàn...” đậm chất liệu dân ca Tây Bắc.

- Một sự lãng mạn, trong sáng của lớp người lớn lên dưới chế độ mới.

- Bắt đầu có chỗ người ta chú ý, tôi tiếp tục sáng tác và được Đoàn văn công Quân khu thông qua dễ dàng hơn. Năm 1962, tôi có bài hát “Không cho chúng nó mò vô, nếu chúng vô không cho chúng nó mò ra”...

- Cái “tít” của bài hát hơi dài...

- Đó là hoạt ca nam chống biệt kích Mỹ-ngụy. Nó như thế này: “Không cho chúng nó mò vô/ Khi chúng vô ta không cho chúng mò ra/ Biệt kích phải chống đừng cho chúng nó mò vào/ Nó vào ta không cho chúng nó mò ra...” kiểu như thế đó, anh ạ!

-Ối giời! Quả mà nghe bài này, bọn biệt kích như đi vào “mê hồn trận”, không biết lối ra thật!

- Không ngờ bài hát “dính giải” Hội diễn văn công toàn miền Bắc, và từ đó, nghiễm nhiên tôi được Đoàn bố trí làm công việc sáng tác, tuy chưa phải là nhạc sĩ...

Duyên tình

PV: Thưa nhạc sĩ Ánh Dương! Được biết hồi chống Mỹ, Văn công Quân khu 4 có rất nhiều nghệ sĩ từ những vùng miền khác nhau của đất nước, chứ không chỉ người miền Trung như bây giờ.

Nhạc sĩ Ánh Dương: Có rất nhiều nguyên nhân, nhưng có sự việc còn liên quan đến hạnh phúc của tôi.

Sau ngày không quân Mỹ bắt đầu ném bom miền Bắc (5-8-1964), Tổng cục Chính trị kêu gọi những anh em có sức khoẻ, năng lực bổ sung cho chiến trường miền Nam. Tôi xung phong và được cấp trên chấp thuận. Cuối tháng 9-1964, tôi được gọi ra Mai Dịch (Hà Nội) tập trung. Tại đây, chúng tôi được huấn luyện chuyên môn, rèn luyện sức khoẻ (bằng cách mang gạch trong ba lô), sau đó được chia thành các đội. Tôi được biên chế về đội đi khu 5 gồm 13 anh chị em, có các anh Tào Mạt (sau này trở thành nhà viết chèo nổi tiếng), Phùng Đệ (quay phim)... và người ít tuổi nhất là cô ca sĩ Hồng Mậu, sau này trở thành người bạn đời của tôi. Đồng chí Hồng Mậu này người Quảng Ngãi, vốn theo đoàn văn công khu 5 tập kết ra Bắc học ở trường học sinh miền Nam rồi sau đó theo học ở trường nhạc. Sau Tết Nguyên đán 1965, chúng tôi ngồi xe bịt bùng đi vào chiến trường. Vào đến Vinh thì Quân khu 4 cử người ra đón và cho biết chỉ thị của đồng chí Tố Hữu: Do tình hình khu 5 địch đánh phá rất ác liệt nên cả đoàn đi khu 5 dừng lại, bổ sung vào Quân khu 4. Vậy nên nhiều anh chị em văn nghệ sĩ khắp các miền trở thành văn công Quân khu 4, trong đó có Hồng Mậu của tôi. Sau này, chúng tôi thành vợ chồng, Hồng Mậu đẻ cho tôi 4 đứa con. Nhà tôi về hưu năm 1982 với quân hàm đại úy, mất cách đây 2 năm do căn bệnh ung thư quái ác. Có một cái như hữu duyên là các bài hát trong cụm tác phẩm được Giải thưởng Nhà nước của tôi đều do bà nhà tôi lĩnh xướng.

- Đúng là duyên tình thật!

- Duyên tình thật, anh ạ, cũng như duyên nghiệp vậy. Và cái nghề của tôi, tôi nghĩ, mỗi tác phẩm âm nhạc đều có số phận...

- Phải chăng ông muốn nói đến bài hát nổi tiếng “Chào em cô gái Lam Hồng” của ông?

- Vâng, có lẽ nhờ bài hát đó mà các anh ở trên trao tặng Giải thưởng Nhà nước. Đây là bài hát gặp may mắn nhất. Để tôi kể anh nghe hoàn cảnh ra đời của nó.

Cuối năm 1967, chúng tôi được cử đi dự Đại hội chiến sĩ quyết thắng của tỉnh đội Hà Tĩnh tổ chức ở xã Sơn Bằng, huyện Hương Sơn. Sau đại hội, tôi, nhạc sĩ Thái Quý và anh Bùi Tòng biên đạo múa được mời về giúp đỡ văn công tỉnh đội. Hồi đó, Mỹ đánh phá đường số 1 rất ác liệt để cắt tuyến đường tiếp tế của ta từ miền Bắc vào miền Nam, nên ta phải mở thêm đường 15 ở phía tây Hà Tĩnh. Đêm ở Sơn Bằng, anh Nguyễn Hảo, chủ nhiệm chính trị tỉnh đội Hà Tĩnh mời tôi ngồi xe con cùng anh ấy về Can Lộc, nơi tỉnh đội đóng quân. Thú thực với anh, lúc đó tôi đã 33 tuổi, trong khi nhà tôi mới có mang đứa đầu nên tôi khát sống, cứ sợ máy bay Mỹ nó “ụp” cho một cái thì tiếc quá! Như đọc được suy nghĩ của tôi, anh Hảo cười: “Anh Dương ơi, cứ yên tâm ngồi xe, hai bên đường ở đâu cũng có thanh niên xung phong. Các cô đã cảnh giác cho chúng ta”. Tuy sợ, nhưng không dám từ chối vì không muốn là thằng hèn trong con mắt mọi người, thế là tôi liều đi theo anh Hảo.

- Và đó là dịp may cho anh...

- Đêm hôm đó, địch đánh phá dữ dội. Pháo sáng trước, pháo sáng sau, pháo sáng hai bên, rồi bom nổ chỗ này, chỗ kia... Nhưng một điều làm tôi bớt sợ là ở đâu cũng có người, mà toàn nữ thanh niên xung phong. Họ làm tiêu cho xe đi, báo cho xe biết từng đoạn đường an toàn hay không. Anh Hảo bảo: “Con gái Hà Tĩnh quê tôi dũng cảm và hiền lắm. Tôi rất muốn có một bài hát về họ”. Tôi ngồi im lặng, không dám hứa gì, bởi sáng tác như người câu cá, ngồi cả buổi chưa chắc đã bắt được con nào, nhưng bất chợt nhấc lên con cá sộp. Nhưng tôi nghĩ, lời của anh Hảo là một yêu cầu từ cuộc sống, là một gợi ý về đề tài giao thông vận tải mà tôi, một nhạc sĩ quân đội phải có trách nhiệm sáng tác.

Khi nhạc sĩ hút được tinh hoa cuộc sống

PV: Và ngay lập tức trong đêm chiến tranh ác liệt nhưng lãng mạn đó, bài hát “Chào em cô gái Lam Hồng” đã ra đời?

Nhạc sĩ Ánh Dương: Đâu có đơn giản vậy! Phải mất một thời gian ở cùng đội văn công tỉnh đội và đọc nghị quyết của tỉnh ủy Hà Tĩnh, tôi mới sáng tác được.

- Tôi có thấy nghị quyết nào đâu, chỉ thấy lời hứa hẹn “Hoành Sơn một mai xuôi về”...

- Không phải “một mai”, mà là “một mái”. Khổ quá, mấy ông biên tập không hiểu nên làm cho mọi người hát sai cả. Núi Hoành Sơn như hai mái nhà, một xuôi về Quảng Bình, một xuôi về Hà Tĩnh. Nguyên văn câu hát là: “Hoành Sơn một mái xuôi về/ Hòa tình em từng viên đá nhỏ/ Đêm đêm lát trên đường quê nhà...”. Hồi đó, nghị quyết của tỉnh ủy Hà Tĩnh dũng cảm đến mức độ là không được đưa đá hộc, mà phải đưa đá nhỏ ra mặt đường để xe bộ đội ta “bon bon ra chiến trường”. Một nghị quyết dũng cảm và tình cảm, rất thấu tình đạt lý, giàu tình nghĩa của đồng bào Hà Tĩnh với miền Nam ruột thịt. Điều đó đã làm tôi xúc động viết nên “Hòa tình em từng viên đá nhỏ”... Đấy, nó mang hơi thở của chính nghị quyết tỉnh ủy, chứ tôi làm gì nghĩ ra được?

Cuộc đời sáng tác âm nhạc nhiều trắc trở lắm, nhưng cũng có lúc nghệ sĩ gặp được may mắn, ấy là khi hút được tinh hoa của cuộc sống. Nói một cách văn hoa là thăng hoa, nhưng tôi thì nôm na là bật ra ý tưởng và ý tưởng đó đứng được với thời gian...

- Có nghĩa là theo ông, âm nhạc phải bắt nguồn từ cuộc sống?

- Chắc chắn như vậy! Nếu không bắt nguồn từ cuộc sống mà tác giả nào chỉ ngồi “suy bụng ta ra bụng người” thì khó mà thành công. Chỉ có gắn bó với cuộc sống của nhân dân, với hạnh phúc của nhiều người thì tác phẩm mới “sống” dài lâu.

- Từ ý tưởng đó, ông nghĩ như thế nào về tác phẩm của các nhạc sĩ trẻ hôm nay?

- Anh em trẻ hiện nay được đào tạo cơ bản hơn chúng tôi. Họ còn có hạnh phúc là được tiếp nhận tinh hoa của nhiều trường phái âm nhạc trên thế giới. Nhiều người trong số họ thực sự có tài, mẫn cảm và có mơ ước không tầm thường. Chỉ có điều thế này: Nhạc trẻ thỉnh thoảng có vài tác phẩm tôi thích, nhưng cũng không ít bài tôi không ưa vì ngôn từ xa lạ với nhân dân, lại tuyên truyền cho lối sống ích kỷ.

Có lẽ nhiều người không tán thành với tôi lắm, nhưng cho phép tôi bày tỏ quan điểm sáng tác của mình. Thế hệ chúng tôi trưởng thành từ chống Mỹ, một giai đoạn hào hùng khi mà mọi người chỉ biết sống vì nhau, biết hy sinh quyền lợi cá nhân cho lợi ích tập thể, nên rất không thích nghe các bài hát về tình yêu mà cứ xót xa, trái tim quắt héo, xin anh chỉ một ngày thôi... Tôi chấp nhận có tình ca, trong đó có mình và có mọi người, ví dụ như “Tình ca” của Hoàng Việt và Tình em” của Huy Du. Nói về đôi lứa, nhưng khái quát được cả một tinh thần dân tộc, cả cuộc chiến đấu vĩ đại của nhân dân ta, mà yêu nhau vẫn tha thiết.

- Xin cảm ơn ông!

Hồng Sơn (thực hiện)