 |
Nghệ nhân Hoàng Kỷ với tập sách sưu tầm ghi chép về ca trù |
Đó là danh hiệu cao quý dân làng Lỗ Khê, xã Liên Hà, Đông Anh (Hà Nội) dành cho nghệ nhân Hoàng Kỷ. Đã bước sang tuổi 82, hơn 10 năm qua lão nghệ nhân “vác tù và hàng tổng” ấy vượt qua bệnh tật, cần mẫn sưu tầm từng làn điệu ca trù để truyền dạy cho đời sau.
Trở lại kí ức những ngày trai trẻ, lão nghệ nhân say sưa tâm sự: Ông sinh ra trong một gia đình cả 4 đời đều biết chữ Hán. Bố là nghệ nhân Hoàng Lư, một tay trống chầu cự phách của giáo phường Kinh Bắc thuở ấy. Hai cô ruột tên là Lan và Vị đều là những nghệ nhân hát ca trù có tiếng. Theo bố và cô đi nghe hát nhiều, đến năm 12 tuổi, ông tham gia phường bát âm, thổi sáo, kéo nhị, hát đình, đánh trống chầu... Vì thế, từng lời ca, điệu hát cứ ngấm dần vào máu thịt ông lúc nào không hay. Năm 1952, tạm gác lại niềm đam mê ca trù, Hoàng Kỷ vào quân ngũ. Trước lúc về hưu (năm 1990) ông là Đại tá, Phó cục trưởng chính trị Cục Hậu cần kĩ thuật, Bộ đội Biên phòng. Thời điểm đó, ca trù Lỗ Khê đang bước vào giai đoạn khó khăn. Các nghệ nhân có tên tuổi ngày càng ít đi, lớp trẻ thờ ơ với nghệ thuật ca trù. Nỗi lo lắng nghệ thuật truyền thống của cha ông bị mai một gieo vào lòng ông niềm khắc khoải nuối tiếc. Thế là sau khi về hưu, ông gần như dành trọn cho nghệ thuật ca trù.
Ngày ngày, dân làng Lỗ Khê lại thấy ông cắp theo sổ sách, bút mực đi đến tận nhà từng nghệ nhân gạo cội trong làng ghi chép cẩn thận từng làn điệu ca trù cổ. Vốn biết chữ Hán nên ông tìm tòi thêm trong các văn bản cũ về nghệ thuật ca trù rồi phiên âm ra tiếng Việt. Những tập tài liệu viết tay về các làn điệu ca trù cổ cứ ngày một dày thêm. Ông cho biết: Ca trù có ba điệu chính là: Hát chơi, hát cửa đình, hát thi. Trong đó, tinh hoa cái hay cái đẹp nằm nhiều nhất ở thể hát cửa đình. Vì thế, không chỉ sưu tầm lời hát mà ông còn vẽ cả sơ đồ về hát cửa đình và giảng dạy cho thế hệ sau hiểu rõ. Bước sang năm 2009, khi tuổi đã cao, căn bệnh tiểu đường quái ác lại liên tục hành hạ, ông vẫn miệt mài tập hợp các văn bản chép tay từ 10 năm qua thành các tập san về nghệ thuật ca trù.
Ngắt dở cuộc nói chuyện, nhấc từng bước chân nặng nề, ông vào thư phòng lấy ra cho chúng tôi xem ba tập san vừa mới hoàn thành. Ba tập san dày cộm, ông bỏ tiền túi thuê đánh máy, rồi in ra thành nhiều bản. Quyển thứ nhất: Ca trù hát cửa đình (các bài hát của giáo phường xưa), sưu tầm được 40 thể loại bài hát với nội dung còn nguyên vẹn. Quyển thứ hai: Các bài múa ca trù, sưu tầm ghi chép được 12 bài múa cổ, gồm múa tiên, múa bổ bộ, múa tứ linh... Đặc biệt là cuốn thứ 3: Lời thơ một số giai điệu bài hát ca trù, tập hợp hơn 34 bài thơ theo lời mới do ông sáng tác. Với 18 thể loại như: Hát nói, hát phú, hát thiên thai, hát kể chuyện, chủ đề ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi Đảng, Bác Hồ... đã thực sự biến lời hát cửa đình cổ xưa trở nên gần gũi, thân quen, dễ nhớ, dễ thuộc. Tập sách đã trở thành tài liệu quý giá của các thành viên Câu lạc bộ ca trù Lỗ Khê và được chuyền tay tới đông đảo người yêu thích ca trù.
Mặc dù tuổi đã cao, sức khỏe đã giảm nhưng ông vẫn tham gia truyền dạy ca trù cho các thành viên trong Câu lạc bộ ca trù Lỗ Khê. Còn nhớ, năm 2007, cô sinh viên người Pháp Alisen sang Việt Nam làm luận án tiến sĩ về nghệ thuật ca trù, riêng phần trống chầu đích thân ông chỉ giáo mà không nhận một đồng tiền thù lao. Cứ mỗi độ lễ tết, ngày giỗ tổ làng nghề, tiếng trống chầu Hoàng Kỷ lại vang xa, đằm thắm, da diết lòng người.
Bài và ảnh: PHẠM KIÊN