Theo đường 19, chuyến xe mù bụi đưa tôi leo ngược dốc đèo An Khê. Tôi cứ ngẩn ngơ dõi qua cửa kính xe để nhìn những đỉnh núi cao vời vợi. Đây rồi! Thị trấn Kon Từng và “Chớp trên đỉnh Kon Từng” là một truyện ngắn của nhà văn Trung Trung Đỉnh mà tôi đã đọc cách đây khá lâu. Câu chuyện về một làng bà con người dân tộc nghèo ám ảnh mãi trong ký ức. Giờ đây, tôi đã được vào mảnh đất Tây Nguyên vời vợi. Cảm nhận đầu tiên của tôi là gió. Gió như những con ngựa hoang lồng lộn khắp đất trời. Gió hả hê cuốn bụi đất lao mù mịt qua những rừng cây, làng bản, con đường… Gió vấn vít xoay tròn quẩn lấy chân con người như những người bạn cố tri lâu ngày mới gặp lại.

Bình yên một vùng biên giới Tây Nguyên. Ảnh: NGUYỄN XUÂN CƯỜNG

 Thiếu tá Nguyễn Cảnh Minh bảo: “Đi vào làng cho biết bà con sống thế nào?”. Anh là cán bộ trợ lý dân vận thuộc Ban chính trị Đơn vị Thăng Long-Đoàn Đồng Bằng. Hôm mới xuống đơn vị, tôi hơi ngỡ ngàng vì cái tên gọi của đơn vị. Già làng YBế, làng ZaMút xã Hạ Bầu-huyện Đăc Đoa nâng ly rượu trong vắt, gương mặt nhăn nheo và đôi mắt đục trầm ngâm. Già năm nay đã ở cái tuổi ngoài bát thập. Ngồi quanh mâm rượu còn có tôi, anh Minh và YJan, người con cả của già, hiện đang làm y sĩ ở Bệnh viện Đa khoa tỉnh. YJan có gương mặt sáng sủa và đôi mắt thật hiền. Anh là một trong số ít người con Ja Rai được đi thoát ly ở cái làng nhỏ bé này. YJan tâm sự, tính anh vốn ham làm vườn, làm rẫy. Thấy vợ chật vật ở nhà với mấy công đất trồng hồ tiêu, cà phê anh áy náy lắm, cứ muốn xin nghỉ việc Nhà nước về để giúp vợ. Nhưng rồi có một điều làm anh đau đầu trăn trở mãi đó là anh làm ở phòng trực cấp cứu của bệnh viện nên mỗi khi có đồng bào vào, anh là người trực tiếp hướng dẫn đồng bào làm thủ tục nhập viện. Anh nghĩ mình là người dân tộc nên việc tiếp cận và giúp đỡ đồng bào một cách mau chóng dễ dàng hơn. Đồng bào có phải ai cũng biết nói tiếng phổ thông thành thạo đâu và ngược lại ở bệnh viện thì có mấy ai nghe, nói và hiểu được tiếng đồng bào…

  Anh Minh nói tiếng Ja Rai một cách khá thành thạo, để có được cái vốn ngôn ngữ ấy, anh đã phải qua một lớp học mấy tháng của đơn vị mở dạy cho cán bộ và do tích lũy từ kinh nghiệm thực tế. Làm cán bộ dân vận mà không nói được tiếng của đồng bào thì coi như là bó tay. Trong mấy lần được quá giang cùng anh Minh vào làng, tôi mới thực sự được mở mang thêm một chút ít về phong tục tập quán của đồng bào nơi đây.  Ở đây, tôi gặp Ksor Pnưng, chàng thanh niên có dáng ngồi lặng lẽ như tượng đá. Hai mươi tám tuổi, Ksor Pnưng đã không còn là chàng trai trẻ như tôi tưởng. Anh góa vợ đến nay tròn năm năm. Căn bệnh ung thư quái ác cướp đi của anh người vợ yêu và để lại đứa con gái nhỏ nhoi ba tuổi. Gà trống nuôi con như vậy cho đến bây giờ. Anh còn là chủ của 3 héc-ta cà phê bốn năm tuổi. Trưởng thôn Ksor Mling bảo thằng này nó mê đất lắm chứ không mê gái đâu. Đẹp trai, phong độ, tôi hỏi anh sao không lấy vợ, anh cười rồi trả lời thật nhỏ nhẹ: “Cứ từ từ mà…”.

Từ Đoàn Đồng Bằng, đi bộ một lúc là tới hồ Tơ Nưng (còn gọi là Biển Hồ). Đây là hồ tự nhiên, rộng 230 héc-ta nằm cách quốc lộ 14 ba ki-lô-mét. Theo như những lời kể của người dân ở đây thì hồ này không có đáy bởi đây chính là cái miệng của một núi lửa cách nay hàng triệu năm. Còn theo các nhà khảo cổ học thì việc khai quật ở khu vực Biển Hồ đã phát hiện nhiều di vật có niên đại thuộc thời kỳ đồ đá mới đến giai đoạn thời kỳ kim khí, cho thấy Tây Nguyên là một trong những cái nôi của loài người trên đất nước ta…

Cái làng của những người lính đang ở nơi đây cũng có tên là làng Đồng Bằng. Khi hành quân lên Tây Nguyên, mang theo vợ con gia đình vào đây lập nghiệp, chắc các vị lãnh đạo Sư đoàn không những muốn đặt cho làng cái tên giống tên Sư đoàn mà còn muốn để luôn nhớ về miền đồng bằng đất bắc xa xôi. Ở ngoài đó không những còn có cha mẹ, vợ con, anh em, bè bạn mà là còn những quãng đời, những tháng năm yêu thương thời ấu thơ, trai trẻ, để rồi họ luôn tâm niệm rằng, Tây Nguyên là miền đất ấm của họ và những thế hệ con cháu  sau này.

 Tôi tới nghĩa trang liệt sĩ thành phố Pleicu. Nơi đây, tôi đã thầm đọc tên những người con khắp mọi miền đất nước từng ngã xuống trên mảnh đất Tây Nguyên và được quy tập về chốn này. Có những ngôi mộ còn để trống phần tên, quê quán. Trong cái gió hun hút Tây Nguyên, tôi như thấy các anh nằm lặng yên ngước nhìn lên bầu trời xanh thẳm. Các anh đã lặng lẽ nằm xuống mà có đòi hỏi gì đâu. Cuối dãy mộ có một người đàn bà đang khóc. Chị quê ở Phú Thọ. Gần bốn mươi năm rồi mới tìm thấy mộ anh trai. Hơn nửa đời người rồi, làm sao mà nước mắt chẳng rơi. Anh mình đó, người anh thường nhường nhịn mình chút quà, tấm bánh khi mẹ đi chợ mua về. Anh ơi, em đưa anh về quê nhé, bố mẹ đã mất rồi nhưng còn em, còn quê hương của mình anh ạ.

Khi rời Gia Lai qua Đắc Lắc theo lời mời của một người anh họ, tôi mang theo mình một nỗi quyến luyến về miền đất ấm. Quốc lộ 14 uốn lượn theo những triền đồi nhấp nhô xanh bởi rừng cao su, rừng thông rồi cà phê, hồ tiêu, bắp, sắn… Bây giờ là cuối năm, cao su đang vào mùa thay lá, cà phê cũng cuối mùa thu hoạch. Những vạt cà phê xỉn đen bốc mùi hăng hắc phơi rải rác dọc đường. Lâu lâu lại gặp một cái máy bóc vỏ nổ xình xịch phun bã mịt mù…

Tây Nguyên trù phú hơn tôi tưởng nhiều lần. Từ đất, những loại cây có tiềm lực kinh tế cứ ngày ngày vươn cao lên mãi. Xuống huyện CưMga thăm người anh họ, với 4 héc-ta cà phê và 6 héc-ta cao su, anh là một ông chủ nhỏ hứa hẹn một cơ đồ vững chãi. Tất nhiên, cho dù đất đai ở đây có tốt thật đấy nhưng mồ hôi và công sức đổ vào cho cái trang trại này không phải là nhỏ. Cao su thì từ khi trồng cho tới lúc khai thác được cũng phải tầm bảy tám năm trở lên. Cà phê cũng vậy, khoảng hai năm  bắt đầu cho quả bói. Nhưng có thọc tay vào việc chăm sóc thì mới thấy hết cái cực. Vào mùa khô, mỗi tháng phải một lần tưới. Ống dẫn nước to bằng cổ tay được bơm lên từ những cái giếng sâu từ ba bốn chục mét trở lên. Tưới thì phải tưới thật đẫm. Rồi việc bón phân mỗi năm bốn lần. Phân giả giờ đây tràn ngập thị trường, ngu ngơ một chút là mắc phải ngay. Nguy hiểm của việc bón nhầm phân giả là chẳng những mất tiền oan mà ngược lại là mất mùa quả chắc chắn. Quả xanh gặp phải phân giả coi như tiêu đời, thi nhau rụng xuống tơi tả, người dân chỉ biết nhìn ngậm ngùi, xót xa. Làm ra hạt cà phê thành phẩm đâu phải chuyện dễ nhưng đến lúc bán lại hay gặp giá cả thất thường. Chỉ có bọn con buôn đầu cơ là giàu sụ. Mủ cao su cũng vậy. Chỉ mới cách nhau hai tháng mà giá đã rớt chỉ còn 1/3. Xe nhà máy không còn đi thu mua, mủ gom mấy hôm dồn chất đống hôi hám, nhân công thở dài ngao ngán…

Hồn nhiên những em bé Tây Nguyên. Ảnh:  ĐOÀN HOÀI TRUNG

Bên tách cà phê bốc khói ở một cái quán vườn ven đường, tôi và người anh họ cùng nhâm nhi thứ nước đăng đắng thơm ngầy ngậy mà hình như chỉ ở Tây Nguyên mới có. Anh bảo với tôi như đinh đóng cột rằng thằng con trai đầu học xong, nếu không đậu đại học nhất định phải cho đi nghĩa vụ quân sự, xong rồi về mới tính chuyện công việc tương lai. Hóa ra trước kia anh cũng là lính Binh đoàn Tây Nguyên, sống trên đất Tây Nguyên thấy nghiền đất đai nơi đây để rồi sau khi ra quân, anh gom góp ít vốn liếng ngoài bắc kéo tuột vợ con vào đây tính chuyện lâu dài. Giờ đây, mỗi năm anh còn tạo công ăn việc làm cho hàng chục người bà con anh em từ quê rỗi rãi nông nhàn vào làm ăn kiếm thêm thu nhập.

Từ giã đất Tây Nguyên, xe xuôi theo Đường Hồ Chí Minh, con đường đầy huyền thoại một thuở. Lại đi qua chập chùng đồi, chập chùng núi, mới thấy hết cái bao la hùng vĩ của Tổ quốc mình. Cha Lạc Long Quân đưa năm mươi đứa con xuống biển. Mẹ Âu Cơ đưa năm mươi đứa con ngược rừng. Những người con của cha và mẹ đã khai phá thành những vùng đất mới. Đất ấm lên khi có dấu chân người…

Bút ký của TRẦN MẠNH HÀ