 |
|
Những người dân Đô-mi-ni-ca vượt biển trên những con thuyền mong manh với hy vọng đến được “miền đất hứa”. |
Cộng hòa Đô-mi-ni-ca là một trong những đất nước nghèo nhất thế giới. Ở đó, 25% dân số có mức thu nhập dưới 2USD/ngày. Người dân phải vật lộn sinh nhai triền miên, vì thế, ước mơ của nhiều người là làm sao vượt biển sang quốc gia láng giềng Pu-éc-tô Ri-cô rồi từ đó tìm cách vào Mỹ lén lút. “Đáp ứng” nhu cầu này, những kẻ buôn lậu luôn tổ chức những chuyến vượt biên với giá 5.000USD/người.
Ngày 29-7-2004, một chiếc tàu mỏng manh gọi là “yola” dài 28 feet (khoảng 9,5m), bề ngang 7 feet (khoảng 2,2m) chở 87 người đàn ông lẫn phụ nữ khởi hành đi từ bãi Ba-ra-cốt ra khơi, hướng về Pu-éc-tô Ri-cô. Ước mơ của họ? Làm sao được như hàng nghìn dân Đô-mi-ni-ca đã lọt được vào bên trong nước Mỹ một cách an toàn. Chuyến hành trình dài 80 dặm, băng qua một vùng biển đầy cá mập là Mô-na Pa-sa-ge được dự trù sẽ diễn ra trong 3 ngày.
Sau hai tuần trôi lênh đênh trên biển do lạc đường vì sương mù dày đặc, họ lại gần như quay trở lại nơi xuất phát, nhưng 48 người đã chết. Những người còn sống là những “bóng ma biết đi, chỉ còn da bọc xương”. Chuyến đi đầy mộng mơ biến thành cơn ác mộng.
San-ta-na dê Giê-su, Méc-xe-đéc và Pê-ran-ta là 3 người sống sót. Tuy hãy còn kiệt sức trên giường ở bệnh viện, họ vẫn cố kể lại câu chuyện đã xảy ra…
Rời bến lúc 6 giờ chiều từ làng ven biển Ba-ra-cốt trên một chiếc ghe bằng gỗ cây thông, không mái chèo, không áo phao và (sau này họ mới biết), không đủ xăng dầu với 87 người ngồi như cá hộp. Tất cả đều vui vẻ, phấn chấn và tử tế với nhau. Có người còn hát vang. Quang cảnh trên biển rất đẹp với những con cá heo nhảy lên mặt nước gọi nhau…
Nhưng đến đêm thứ hai, khó khăn bắt đầu. Đa số thực phẩm để dành 3 ngày như sô-cô-la, bánh mì, bắp các loại, sô-đa và nước trái cây được cất kỹ để dùng dần. Tuy nhiên, có một nhóm khoảng 10 người, đợi những người khác ngủ say bắt đầu ăn trộm thực phẩm. Méc-xe-đéc có 30USD trong túi cũng bị lột sạch.
Đến ngày thứ ba, lẽ ra bình thường thì con tàu đã cập vào đảo Mô-na gần Pu-éc-tô Ri-cô, nhưng tai họa ập đến. Con tàu bắt đầu trôi ra biển khơi vì lạc đường do sương mù xuống dày đặc. Đến ngày thứ sáu thì tàu hoàn toàn hết dầu…
Chỉ sau 3 ngày đã có người hấp hối. Đó là những người già, từ 60 đến 70 tuổi. Do bị mất nước vì nóng, họ lịm dần. Những người khác đợi thêm 24 giờ xem họ có khá hơn không. Sau đó họ ném những người chết xuống biển và đọc kinh cầu nguyện cho họ. Sang ngày thứ 5 thì cả nhóm biết là họ đã lạc đường. Thế là họ cắt quần của những người chết để làm buồm.
Ông thuyền trưởng cố dùng điện thoại di động để gọi lực lượng cứu hộ bờ biển của Pu-éc-tô Ri-cô nhưng vô hiệu. Ông ta năn nỉ mọi người nếu tàu được vớt thì đừng tố cáo ông ta. Ông cũng năn nỉ hãy kể là một chiếc tàu đã gặp chúng tôi và hứa sẽ quay lại cung cấp thêm xăng. Sở dĩ ông ta làm thế là vì nếu không ông ta sẽ gặp rắc rối to với nhà chức trách. Ông này sau đó sống sót trong chuyến đi khủng khiếp.
Ngày dài trôi qua, mọi người đói lả… Một số người yêu cầu các cô gái trẻ hãy vắt sữa từ vú họ để cứu người. Một cô đã làm như thế. Cô gái tốt bụng cố bóp, vặn vẹo bầu vú để lấy sữa thấm trên môi người chết khát. Sau đó, cô gái cũng chết. Khi thực phẩm cạn sạch, tất cả đồ ăn còn lại là một trái dừa, một người vớt được nó trên biển và chia nó với các người khác. Dê Giê-su kể là cổ họng cô khô ran như bị ai bóp và cho biết, cô cùng những người khác đã bàn nhau phải ăn thịt những người chết. Một số kêu rú lên: “Làm sao làm chuyện đó được? Các bạn không thể làm được như thế đâu…”. Nhưng kết cục, họ đã phải làm chuyện đó…
Đến ngày thứ bảy, bờ biển của Mô-na hiện ra xa mờ. Cái cảnh này thì quá mức chịu đựng của nhiều người trên tàu. Pê-ran-ta cho biết, có 5 người nhảy xuống biển bơi về hướng đảo và không biết họ có thành công hay không. San-ta-na kể: “Ngày lại qua… Tôi khát và đói quá. Tôi không muốn nghĩ đến các món ăn ưa thích nữa mà chỉ mơ màng tới nước sô-đa nho…”. Còn Dê Giê-su thì cố nghĩ đến những người thân trong gia đình.
Trời rất nóng, một số đàn ông thay phiên nhau cố dùng các mảnh gỗ để chèo. Một số bắt đầu mê man và có ảo giác. Có người nói, họ thấy có cái siêu thị to trên mặt biển và rồi nhảy xuống bơi về nơi đó. Không ai thấy họ lần nữa. Có 3 lần họ trông thấy tàu khác, nhưng chúng ở xa quá.
 |
|
Bờ biển Ma-tan-xi-tát, nơi những người còn sống sót sau chuyến vượt biển kinh hoàng được cấp cứu |
Máy bay bay trên bầu trời cũng không thấy họ. Tàu cấp cứu cách họ khoảng 420m rồi lại trở mũi. Tất cả mọi người cùng hét lên, Pê-ran-ta lấy áo thun màu đỏ vẫy lia lịa. Có cả tàu hàng chạy rất sát. Nhiều người bật khóc vì không ai trên các tàu hàng đó thấy họ cả.
Cuối cùng, vào ngày 10-8, ngày thứ 13 của chuyến hải hành địa ngục trần gian, tàu dạt đến gần bờ của Ma-tan-xi-tát thuộc Cộng hòa Đô-mi-ni-ca. Pê-đrô Pô-li-nô, một người làm nghề chài lưới 35 tuổi, thấy chiếc “yola” trôi lờ đờ. Ông ta báo động cho trung úy hải quân Giê-su Un-loa, đang đi tuần trên vùng biển này. Thoạt đầu Pô-li-nô hơi ngần ngại vì ông sợ “trúng kế” quân gian buôn lậu nhưng vì Un-loa thúc ép quá, ông xiêu lòng đi đến gần. Thấy họ, những người trên tàu như thấy Thượng đế hiện ra. Đàn bà nức nở khóc. Họ hét: “Quý vị có phải là ảo ảnh không?”.
Một người tham gia vào cuộc cấp cứu kể lại: “Tôi ẵm một phụ nữ trên tay, cô ta khoảng 30 tuổi, mặc áo T-shirt và quần tây. Cô bị mặt trời đốt bỏng đến nỗi khi cô cởi quần áo ra, tôi thấy da của cô rơi ra từng mảng...”.
Trong số 39 người còn sống, có 8 người chết sau khi lên bờ. Những người còn lại dần dần hồi phục và biết mình đã may mắn biết bao nhiêu... Méc-xe-đéc nói anh sẽ vượt biên lần nữa. Dê Giê-su thì không. Cô dần bình phục trong căn nhà của mẹ ruột ở Vin-la Ri-va và cho biết sẽ sống ở đó: “Tôi cố gắng không nghĩ đến chuyện đã xảy ra và tôi sẽ không bao giờ muốn rời khỏi nơi đây lần nữa. Sau khi đã trải qua chuyến đi, tôi thấy cuộc sống ở đây đâu đến nỗi tệ…”.
TRẦN LÊ XUÂN (Theo People)