QĐND - Mùa hè năm 1989, tôi là chàng trung úy phóng viên vừa tròn một năm về Báo Quân đội nhân dân, được lệnh đi công tác Trường Sa.
Ngày ấy, phóng viên đi công tác Trường Sa là đi tác nghiệp như kiểu phóng viên thời chiến. Tôi nhảy tàu Thống Nhất vào Nha Trang, đi xe đò ra Vùng 4 Hải quân, trình giấy giới thiệu và được biết: Hiện tại ở quân cảng Cam Ranh, tất cả các tàu hải quân có nhiệm vụ đi Trường Sa đợt này đều đã nhổ neo từ tuần trước. Tôi bối rối, tiến thoái lưỡng nan…
Dịp ấy đang rộ lên phong trào mỗi tỉnh, thành phố trong cả nước ủng hộ bộ đội Trường Sa một ngôi nhà. Tiền của, vật liệu… do các địa phương quyên góp. Một số doanh nghiệp vận tải biển đảm nhiệm vận chuyển vật liệu ra Trường Sa. Còn việc xây dựng nhà ở cho bộ đội thì phải “cậy” Công binh Hải quân. Một ý tưởng lóe lên trong đầu, tôi đánh liều nhảy xe đò lộn ngược ra Nha Trang, tìm đến Công ty vận tải biển Phú Khánh, một doanh nghiệp đang tham gia chiến dịch CQ89 với bộ đội Hải quân. May quá, công ty vẫn còn một tàu ngày mai mới xuất phát.
Thế là sáng hôm sau, tôi được lênh đênh trên con tàu vận tải 600 tấn chở mấy bộ nhà “cao cẳng” ra Trường Sa. Ngày ấy đất nước còn nghèo, bộ đội trên các đảo chìm ở Trường Sa còn phải ở trên những ngôi nhà “cao cẳng” trông chẳng khác gì những chiếc chòi canh, nhô lên khỏi mặt sóng chừng ba, bốn mét. Đơn sơ thế nhưng dựng được một ngôi nhà “cao cẳng” giữa biển khơi cũng phải là bộ đội Công binh Hải quân tinh nhuệ mới làm được. Chuyến ấy, tôi được theo con tàu chở nhà “cao cẳng” ra xây dựng ở các đảo Đá Lớn, Đá Lát và Đá Đông. Tại đó đang có 3 khung xây dựng của một tiểu đoàn Công binh Hải quân do Thượng úy kỹ sư Vũ Tiến Quỳnh làm Tiểu đoàn phó kỹ thuật. Những ngày chờ bộ đội vận chuyển vật liệu trên tàu vào đảo, tôi bám xuồng nhôm sang “thâm nhập” bên tàu của Công binh Hải quân. Một lần trò chuyện cùng anh em, nghe tôi giới thiệu quê mình ở Tuyên Hóa, Quảng Bình, chàng Thượng úy kỹ sư Vũ Tiến Quỳnh reo lên: “Ô, thế thì anh em ta có duyên nợ đấy. Đơn vị chúng tôi chính là hậu duệ của “Đội 8 thủy lôi” anh ạ…”. Tôi ngớ ra không hiểu đầu cua tai nheo duyên nợ thế nào. Vũ Tiến Quỳnh phải hỏi: “Đội 8 thủy lôi” gỡ bom Mỹ ở sông Gianh quê anh hồi chiến tranh, anh không nhớ à?”…
 |
Lữ đoàn Công binh Hải quân 131 tham gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn đóng quân. Ảnh: AN DƯƠNG |
Gì chứ chuyện ấy thì với tôi còn hơn cả nhớ! Bởi vì suốt cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, làng tôi là cái chảo hứng bom vì vừa có đường sắt, vừa có cả đường chiến lược 12A chạy qua; lại có con sông Gianh vừa là tuyến vận tải nối Đường Trường Sơn với cảng biển Hòn La, vừa là nơi neo đậu sơ tán an toàn của bộ đội Hải quân đóng ở Thanh Khê-Cảng Gianh. Trước khi tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam vào đầu năm 1968, đế quốc Mỹ đã rải thủy lôi phong tỏa bờ biển và nhiều con sông huyết mạch giao thông, trong đó có con sông Gianh quê tôi. Thời kỳ ấy, ngành Công binh Hải quân chỉ mới có 2 tiểu đoàn công trình và 1 đại đội bom mìn, thường được gọi là “Đội 8 thủy lôi”. Giữa năm 1967, khi máy bay Mỹ đang đánh phá hết sức ác liệt vùng Nam khu Bốn, “Đội 8 thủy lôi” đã cử mấy cán bộ, chiến sĩ trực tiếp vào quê tôi, lặn xuống lòng sông mang 2 quả thủy lôi ra Nam Đàn-Nghệ An tháo gỡ các bộ phận mày mò nghiên cứu để tìm cách vô hiệu chúng. Cuối năm 1968, Bộ tư lệnh Hải quân mở chiến dịch VT5 vận tải phục vụ chiến trường, “Đội 8 thủy lôi” lại được lệnh vào sông Gianh thông luồng khai tuyến. Suốt 3 tháng ròng rã bất kể ngày đêm, mưa nắng… Đội 8 được sự giúp đỡ của bà con hai bờ sông và sự phối hợp của dân quân địa phương, đã rà phá hàng trăm quả thủy lôi trên lòng sông và cảng biển. Từ đây, hàng hóa theo tàu thủy từ Hải Phòng vào cảng Gianh, ngược sông Son lên bến Xuân Sơn nhập vào đường Trường Sơn đoạn qua Phong Nha-Kẻ Bàng; hoặc hàng hóa theo tàu hỏa vào ga Tân Ấp, xuôi theo sông Gianh xuống vùng Ba Đồn rồi lại ngược theo Đường 15B lên Trường Sơn... Sau chiến dịch này, “Đội 8 thủy lôi” được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng ba và 4 cán bộ, chiến sĩ của đội được thưởng 4 Huân chương Chiến công các hạng. Tháng 11-1975, “Đội 8 thủy lôi” cùng một số đơn vị cấp phân đội Công binh Hải quân phía Bắc được sáp nhập thành Trung đoàn 131 Công binh Hải quân…
Tôi trở thành “người nhà” của Trung đoàn 131 là vì “duyên nợ” trên đây. Thấm thoắt đã hơn một phần tư thế kỷ trôi qua, Vũ Tiến Quỳnh từ tiểu đoàn phó kỹ thuật đã lên đến Trung đoàn trưởng và nay đã chuyển lên Phòng Công binh Quân chủng Hải quân. Trung đoàn 131 vinh dự 2 lần được tuyên dương danh hiệu Đơn vị Anh hùng LLVT nhân dân và đã phát triển lên thành lữ đoàn. Có một điều khá thú vị: Do công việc làm báo, tôi được đi nhiều nơi và thường được gặp “người nhà 131” ở đó nhiều hơn là tại Trung đoàn bộ và nay là Lữ đoàn bộ. Không chỉ gặp ở biển, đảo mà đôi khi còn gặp ở những công trình xây dựng đường tuần tra biên giới; rà phá bom mìn ở miền núi, trung du… Nhớ có lần sắp kỷ niệm ngày thành lập đơn vị, tôi đi công tác tiện đường ghé vào thăm không báo trước, bởi nghĩ dẫu là kỷ niệm “năm lẻ” nhưng thế nào anh em chẳng tề tựu về họp mặt “ôn cố tri tân”. Nào ngờ dịp ấy doanh trại vắng hoe, cán bộ và chiến sĩ của đơn vị đang có mặt tại hơn chục địa điểm trên cả nước: Dò gỡ bom mìn ở cực Nam Trung Bộ, làm đường tuần tra biên giới ở miền Tây Thanh Hóa, xây nhà tình nghĩa ở Ninh Bình, xây dựng công trình kinh tế-quốc phòng ở vùng Đông Bắc... Theo đó, hầu hết lãnh đạo và chỉ huy Lữ đoàn cũng đang “rải” khắp biên giới, hải đảo.
Trong số những “người nhà 131” mà tôi gặp gỡ và chuyện trò trên những công trình xây dựng khắp trong Nam ngoài Bắc, có một người khiến tôi đặc biệt ấn tượng. Ấn tượng không chỉ vì cả 3 lần đều gặp anh ở đảo, một lần ở Bạch Long Vỹ, một lần ở Côn Đảo và lần gần đây nhất là gặp anh ở Trường Sa tháng 5-2015, mà ấn tượng còn vì một sự nhầm lẫn về tuổi tác rất… thông cảm. Người ấy là Thiếu tá, QNCN Nguyễn Xuân Cung, quê ở xã Đạo Đức, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. Lần đầu gặp Cung, tôi cứ gọi anh xưng em ngọt xớt, bởi đoán chắc anh ta phải hơn mình vài tuổi. Nào ngờ Cung sinh năm Bính Ngọ, kém tôi những 8 tuổi. Khi anh em đã tuổi tác phân minh, Cung ngượng nghịu vò vò vuốt vuốt mái tóc lốm đốm tua tủa như túm rễ tre phân trần: Tại vì em quanh năm lăn lóc trên các công trường “trên trời dưới biển”, nên người ngợm đen đúa xù xì, già trước tuổi như vậy. Nghe Cung nói thế, tôi bỗng ân hận vì sự hồn nhiên vô ý của mình…
Nhập ngũ tháng 2-1985, từ đó đến nay Nguyễn Xuân Cung gắn bó với đơn vị Công binh Hải quân này, trừ thời gian đi học lái máy xúc, máy ủi. Lấy vợ hơn hai chục năm, nay vẫn ở tạm ngôi nhà cấp 4 là doanh trại cũ của đơn vị hồi đóng quân ở Hà Tu-Quảng Ninh. Hai đứa con, một gái một trai, cách nhau những 14 tuổi, cũng chỉ vì anh quanh năm biền biệt xa nhà… Đến việc giỗ chạp bên nội, lần nào cũng chỉ vợ con anh dắt díu nhau từ Quảng Ninh lên Vĩnh Phúc. Mẹ anh năm nay 92 tuổi, Tết Ất Mùi vừa rồi được lãnh đạo huyện Bình Xuyên đến thăm và tặng quà vì có con trai đang đón Tết ở Trường Sa. Bữa đó, ông Phó chủ tịch UBND huyện còn bấm điện thoại cho anh được nói chuyện và chúc Tết mẹ…
Tôi hỏi Nguyễn Xuân Cung: Tròn ba chục năm gắn bó với đơn vị, công việc của người lính Công binh Hải quân ngày nay so với trước đây có gì giống và khác? Nguyễn Xuân Cung cho rằng nội dung cơ bản không có gì khác. Nhưng cách thức, phương pháp thực hiện thì có nhiều cái khác. Chẳng hạn: Trước đây đi biển thường theo mùa; nay thì sẵn sàng nhổ neo quanh năm, vì khối lượng công việc nhiều, phương tiện vận tải và thi công hiện đại hơn, nên có thể làm việc trong nhiều điều kiện thời tiết. Công tác hậu cần và cung cấp vật liệu xây dựng cũng bảo đảm hơn trước. Chẳng hạn trước đây rau xanh, nước ngọt khan hiếm; nhưng nay tàu to, có phòng khoang lạnh dự trữ rau, thịt... dài ngày. Vả lại, ngày nay nếu thiếu thực phẩm tươi xanh, nước ngọt... thì bộ đội và nhân dân trên đảo cũng sẵn sàng san sẻ “cây nhà lá vườn” cho anh em công binh. Đặc biệt, trước đây đi đảo là... biền biệt xa vợ con, đơn vị; nhưng nay sóng điện thoại di động hầu như phủ khắp vùng chủ quyền biển đảo, có việc gì là a lô trao đổi, chuyện trò với anh em trong đơn vị và gia đình như đang ở trong đất liền vậy...
Còn nói về những gian lao vất vả của lính công binh ở biển, đảo thì cứ suy từ những gian lao vất vả của lính đảo, cộng thêm phần đặc thù của những người lính xây dựng công trình giữa sóng gió đại dương. Chẳng hạn thế này: Mỗi chiến sĩ trên đảo có thể tằn tiện với dăm lít nước ngọt mỗi ngày, nhưng lính công binh xây dựng bê bết cả ngày và có khi cả đêm nữa, thì chừng đó chỉ đủ rửa ráy chân tay trước mỗi bữa ăn, làm sao đáp ứng nhu cầu tối thiểu là mỗi ngày tắm giặt một lần? Mà lính đảo thì có thể xây bể dự trữ nước mưa, hoặc chịu khó rào giậu che chắn để trồng rau xanh cải thiện, còn lính xây dựng cơ động thường xuyên thì không thể. Hoặc như công việc chuyển tải vật liệu xây dựng, bao năm qua rồi và có lẽ còn nhiều năm sau nữa, vẫn chưa có phương cách gì có thể thay thế cảnh vật lộn sấp ngửa với những chiếc thuyền thúng, xuồng nhôm “tăng bo” vật liệu từ tàu lớn nối với đảo bằng một sợi dây chão mong manh giữa biển khơi… Mà trung bình mỗi năm, mỗi người lính của đơn vị trực tiếp đi xây dựng phải chuyển tải gần hai chục tấn vật liệu như thế! Tất cả đều phải “tăng bo” trên những đôi vai, những cánh tay người lính công binh…
Tôi lặng người đi trước những điều Nguyễn Xuân Cung tâm sự, thầm nghĩ rằng mọi sự động viên, chia sẻ của một người ở đất liền như tôi với những người lính Công binh Hải quân dày dạn can trường giữa biển khơi này, sẽ rất vô duyên. Chỉ xin gửi tặng các anh mấy vần thơ tôi đã viết trong một lần được cùng các anh kỷ niệm ngày thành lập đơn vị trên công trường xây dựng:
… Giữa trùng khơi vững chãi những căn nhà
Những kè đá ngực trần chắn sóng
Những trạm quan trắc thủy văn, đếm đo mưa nắng
Những cầu tàu neo trú bão giông
Mùa tiếp mùa…
“Những người lính kê cao Tổ quốc” (*)
Lưng tựa Trường Sơn
Mắt hướng Biển Đông!
Sinh nhật Lữ đoàn năm nay vẫn chẳng thể quây quần
Có bữa tiệc bồng bềnh trên ngọn sóng
Có lá thư nửa năm vừa nhận
Có người bồi hồi nhắc chuyện năm xưa
Có bà mẹ cầm hơi, lo tàu vào không kịp
Có thằng cu biết lẫy biết bò chưa biết mặt cha…
Như muôn ngày
Mấy mươi năm như thế
Lính công trình vẫn lính Trường Sa
Vẫn sắt thép, xi măng…
Và lời thề giữ biển
Tổ quốc lớn mỗi ngày trên bão tố phong ba!
Ghi chép của MAI NAM THẮNG
(*) Câu của nhà thơ Đỗ Trung Lai