Từ một thủy thủ được giác ngộ cách mạng, chàng đã trở thành một trong các tướng lĩnh đầu tiên của Hồng quân công nông Xô-viết. Nàng từng nổi danh là một nhà hoạt động xã hội, nhà nữ ngoại giao đầu tiên trên thế giới. Và họ đã trở thành một đôi uyên ương khác thường.

Vợ chồng ông bà Đư-ben-cô - Cô-lôn-tai năm 1920

Phác họa hai chân dung nổi tiếng

Cách mạng đã làm thay đổi cuộc đời họ. A-lếch-xan-đra Mi-khai-lốp-na Cô-lôn-tai từ bỏ gốc thượng lưu của mình để tham gia hoạt động cách mạng từ thời bí mật, vào Đảng Cộng sản (Bôn-sê-vích) Nga từ năm 1915, tham gia giành chính quyền tại thủ đô Xanh Pê-téc-bua, được Lê-nin bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Chăm lo đời sống quốc gia (năm 1917-1918). Từ năm 1920, bà làm Chủ nhiệm Cục Phụ vận trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Rồi những năm tiếp theo, bà được bổ nhiệm giữ các chức vụ quan trọng về ngoại giao, thay mặt nước Cộng hòa Xô-viết trẻ tuổi ở một số nước như Na Uy, Mê-hi-cô. Nhiều năm bà làm đại sứ ở Thụy Điển…

Cũng vào những ngày “trứng nước” của chính quyền Xô-viết, chàng thủy thủ Pa-ven Ê-vrê-mô-vích Đư-ben-cô giữ nhiều trọng trách: Bộ trưởng Bộ Hàng hải; được bổ nhiệm làm chỉ huy các sư đoàn, rồi quân đoàn Hồng quân công nông ở một loạt mặt trận nóng bỏng, chống trả bọn can thiệp nước ngoài; và cuối cùng là Tư lệnh của một số quân khu quan trọng. Từng là Ủy viên Hội đồng quân sự Trung ương, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô trong nhiều năm, là một trong những tướng lĩnh đầu tiên của nước Nga Xô-viết.

Xuất xứ bản tình ca

Mở đầu “bản tình ca màu hồng” của họ-như nhiều nhà báo và chính luận thời đó mệnh danh-là một câu chuyện khá thú vị. Sau Cách mạng Tháng Mười thành công, cùng với quân can thiệp nước ngoài vào nước Cộng hòa Xô-viết Nga trẻ tuổi, quân đội Đức hùng hổ tiến vào phía bắc, thẳng tới thủ đô Xanh Pê-téc-bua. Theo lệnh Lê-nin, P.Đư-ben-cô được điều về thủ đô, dưới sự chỉ huy của tướng Đ.P.Pa-xki-một trong những vị tướng đầu tiên tổ chức Hồng quân công nông. Tuy nhiên, do Đư-ben-cô tự ý hoạt động độc lập và đơn vị thủy quân của ông nhiều lần thất bại nặng nề. Biết được sự việc đó, Lê-nin đã triệu hồi ông về Xanh Pê-téc-bua. Do không phục tùng sự chỉ huy của tướng Pa-xki và vi phạm nặng kỷ luật quân đội, ông bị cách chức Bộ trưởng Hàng hải và rồi bị bắt giam. Lúc đó bà Cô-lôn-tai đã kịp thời đến cứu giúp: với sự bảo lãnh của bà, Đư-ben-cô được tha, tiếp tục được làm việc.

Sau đó không lâu, vị cựu Bộ trưởng biến mất. Rồi tiếp đó, bà Cô-lôn-tai cũng mất hút theo. Chỉ sau mười ngày mới được rõ rằng: bà đã theo người yêu đi về U-crai-na. Về phản ứng của các thành viên trong Chính phủ đối với cuộc “du ngoạn tình cảm” này, nhiều năm sau bà kể lại với trợ lý của Mô-lô-tốp là V.Ê-rô-phê-ép trong một cuộc đàm luận với ông:

Có lẽ chưa bao giờ trong đời mình tôi được nghe những lời ghê sợ mà các đồng nghiệp đã lần lượt nói về tôi. “Cách mạng đang ở thế hiểm nghèo mà đồng chí Cô-lôn-tai rời khỏi chức vụ của mình, đã đào ngũ, đã cùng với người yêu phản bội cách mạng, phản bội sự nghiệp của giai cấp công nhân”-nhiều người nói. Họ yêu cầu đuổi tôi ra khỏi Chính phủ, khai trừ khỏi Đảng, đưa ra tòa án, thiếu chút nữa thì bị bắt giam… Khi tất cả đã phát biểu xong, một sự im lặng nặng nề bao trùm, họ chờ đợi xem Lê-nin nói gì. Người bắt đầu, không nói nhanh như thường ngày, mà chậm rãi, rõ từng lời: “Vâng, tôi hoàn toàn đồng ý với các đồng chí đã phát biểu, Cô-lôn-tai đã làm một việc rất nghiêm trọng trước cách mạng và bà ấy cần phải bị trừng phạt nghiêm khắc”. Tôi đã sợ hết hồn, hơi thở nghẹn lại. “Do vậy, I-lích tiếp tục, tôi đề nghị phải yêu cầu Cô-lôn-tai, sao cho bà ấy phải… lấy Đư-ben-cô làm chồng”. Tất cả vang lên tiếng cười thân mật…

Nhận xét nửa đùa của Lê-nin đã đóng một vai trò quyết định: Đư-ben-cô và Cô-lôn-tai đã tuyên bố thành vợ chồng.

Một luận thuyết về tình yêu tự do

Bà Cô-lôn-tai đã khẳng định đó là cuộc hôn nhân tự do theo pháp luật đầu tiên ở nước Nga Xô-viết. Sau đó thì họ càng sát cánh với nhau hơn xưa. Nhưng điều này không phải lúc nào cũng được như ý. Đư-ben-cô lại phải hiện diện ở những nơi nóng bỏng nhất, nguy hiểm nhất của cuộc chiến. Năm 1918, ông tới hoạt động ở vùng do quân Đức chiếm đóng ở Xê-va-xtô-pôn, đã bị quân thù bắt và kết án tử hình, nhưng sau đó được thả, do trao đổi với các sĩ quan tù binh Đức. Nhưng họ được sống gần nhau không lâu: khi thì họ cùng nhau chiến đấu chống bọn Đê-ni-kin, hoặc khi Đư-ben-cô theo học ở Viện Hàn lâm quân sự ở Mát-xcơ-va. Họ đã “sống một cuộc đời cách mạng”, công việc của Đảng và Nhà nước đã cuốn hút họ. Có lẽ việc nước, việc quân, việc dân quá bận rộn, đã khiến họ gặp nhiều khó khăn trong đời sống tình cảm, chưa kể một điểm nữa là bà hơn chồng tới… 17 tuổi! Sự lạnh nhạt với vợ của Đư-ben-cô ngày càng tăng dần: “Chính em thấy rõ và biết rằng em không có và không thể mang lại cho anh hạnh phúc trọn vẹn-bà viết cho chồng-Dẫu sao em là con người nhiều hơn là phụ nữ…”. Rồi đến một ngày kia, một tin đồn đã đến tai bà, rằng Đư-ben-cô đã có một người khác, trẻ và đẹp…

A-lếch-xan-đra Cô-lôn-tai, người được giới báo chí phương Tây mệnh danh là “con dao pha của Cách mạng”, là một nhà hoạt động nổi tiếng của phong trào phụ nữ thế giới và nước Nga, người phụ nữ đầu tiên làm đại sứ. Những cuốn sách và bài viết về những vấn đề giải phóng phụ nữ, về đạo đức và tình yêu, như các cuốn Người nữ công nhân-người mẹ, Đạo đức mới và giai cấp công nhân, Tình yêu của những chú ong thợ… đã gây nên những cuộc tranh luận sôi nổi. Bởi vì chính Cô-lôn-tai đã đấu tranh nhằm làm cho “sự gần gũi giữa đàn ông và đàn bà được đơn giản và nhẹ nhàng như uống một cốc nước”. Bà là người theo phái “tình yêu là một cuộc chơi, nó phòng ngừa mọi người khỏi những mũi tên chết người của thần Tình yêu và dạy cho con người đối phó với sự đam mê tình yêu nô dịch từng cá thể”.

Bà đã khẳng định rằng: “Ở người phụ nữ Xô-viết mới thì người phụ nữ-con người cần thắng con quỷ cái ghen tuông”. Theo bà, bất kỳ người đàn ông đang yêu nào cũng cần hiểu rằng, ngoài tình yêu người phụ nữ còn có một thế giới khác nữa. Rồi tới một ngày, khi tác giả và là người truyền những ý tưởng này đã có thể kiểm tra lại sự đứng đắn của nó ở ngay bản thân mình. Bà đã dễ dàng viết nên những dòng về “cốc nước” như thế nào thì cũng thật khó khăn như thế ấy khi thực hiện những định đề này vào cuộc sống.

Lực bất tòng tâm

“Thuyết phục chồng”-bà đã không thể làm được. Năm 1922, Pa-ven Đư-ben-cô chỉ huy Quân đoàn bộ binh đóng ở đại bản doanh ở Ô-đét-xa, Cô-lôn-tai đến thăm ông. Về sự việc này bà ghi trong nhật ký:

Đêm xuống, một đêm nóng nực mệt mỏi. Những đóa hoa hồng trong vườn tỏa hương ngọt ngào đến nghẹt thở. Những ánh trăng vàng nhảy nhót trên mặt nước thẫm màu của biển Đen và đám bụi nước ngời ánh kim cương tung tóe trong bọt biển. Sự giải thích dằn vặt lặp lại giữa tôi và chồng diễn ra trong vườn. Lời cuối cùng và kiên quyết của tôi đã được nói ra: “Vào thứ tư em sẽ trở về Mát-xcơ-va: Tôi sẽ thoát khỏi ông, khỏi chồng mình vĩnh viễn. Ông nhanh chóng quay lưng lại tôi và im lặng bước vào nhà. Một tiếng súng vang lên thật đanh trong sự im lặng của đêm tối ngột ngạt. Tôi linh tính hiểu rằng âm thanh đó biểu thị cái gì và điều tồi tệ đã bao trùm lấy tôi. Tôi tiến vào ngôi nhà. Trên bậc thềm, chồng tôi nằm đó với khẩu súng lục trong tay…

Thật may, phát súng đó đã không chết người.

Vâng, cuộc chia ly đã gây khó khăn cho cả hai. Nhưng nếu lý thuyết “cốc nước” đã sánh ra khi va chạm với cuộc sống thì sự khẳng định rằng “phụ nữ-con người” cần phải chiến thắng “con quỷ cái ghen tuông”, Cô-lôn-tai đã khẳng định được bằng tấm gương của bản thân mình.

“Mọi giày vò liên quan tới Pa-ven Đư-ben-cô, tôi đã nhấn chìm được vào công việc”-bà nhắc trong nhật ký. Và bà đã đạt được điều đó!

Ở tuổi 60, Cô-lôn-tai trở thành một phụ nữ nổi tiếng trên chính trường: nhà hoạt động xã hội, chính trị và ngoại giao. Năm 1945, bà được triệu hồi từ chức vụ đại sứ Liên Xô ở Thụy Điển về nước làm cố vấn cho Bộ Ngoại giao.

Thế còn Pa-ven Đư-ben-cô? Xót xa sâu nặng vì việc ly thân với vợ, ông viết thư cho bà ở Na Uy đề nghị được gặp. Cuộc gặp gỡ đã diễn ra, mặc dầu bà Cô-lôn-tai khó khăn lắm mới vượt qua được Bộ Ngoại giao Na Uy, kiếm được một tấm hộ chiếu cho một người Bôn-sê-vích là một nhân vật “ghê gớm” với phương Tây. Hộ chiếu được cấp một tháng nhưng vị khách đã rời khỏi Ô-xlô một tuần trước hạn. Trong nhật ký của bà chỉ có một dòng ngắn gọn: Tôi đã tiễn đưa với cặp mắt ráo hoảnh.

Về sau, một trong những cuộc họp của Hội đồng cao cấp, bất ngờ Xta-lin đến nói với Đư-ben-cô: “Nào, Đư-ben-cô thân mến, cậu hãy nói cho tôi nghe, vì sao cậu ly dị Cô-lôn-tai?”. Đư-ben-cô đã cố giải thích gì đó, nhưng vị lãnh tụ không để nói hết, đã cắt ngang: “Thế là ngốc. Cậu đã làm một việc quá ngu ngốc”.

Cần có “tâm hồn tôi luyện”

Xta-lin đã theo dõi “bản tình ca màu hồng” này ngay từ đầu, đã không nghi ngờ biết rằng Cô-lôn-tai có một phòng lưu trữ cá nhân lớn, trong đó cất giữ những bức thư của Plê-kha-nốp, Lê-nin, ngoài các bức thư của Đư-ben-cô. Ông cũng biết rằng, trong nhiều năm, bà có viết nhật ký. Theo sự xác nhận của I.Xi-ni-xưn, cựu trợ lý của Chủ tịch Ủy ban An ninh quốc gia I-u An-đrô-pốp, thì vào năm 1942, theo lệnh của Xta-lin, nhân viên của KGB ở Thụy Điển đã đánh cắp được cuốn nhật ký của bà. Tuy nhiên, các chuyên viên của KGB đã bị thất vọng: không có một âm mưu nào ghi lại trong nhật ký, và hơn thế, trong đó còn có những dòng mà tác giả khâm phục “con đại bàng núi” Cô-bôi tức là Đư-ben-cô. “Cô-lôn-tai, Xi-ni-xưn xác nhận, đã hình dung được tính tình của Xta-lin, tính hay để ý của ông, biết được điều gì sẽ xảy ra nếu đột nhiên Tổng bí thư giận bà. Kìm nén lòng tự hào cách mạng của mình và “đính chính” lại những trang nhật ký cũ, bà không những đã cứu được cuộc đời và sự nghiệp mình đã hiến dâng cho cách mạng mà còn đánh lừa được Xta-lin…”.

Còn Pa-ven Đư-ben-cô thì phục vụ trong quân ngũ cho tới cuối đời. Ông được tặng thưởng ba Huân chương Sao đỏ và những phần thưởng khác vì có công với quân đội Xô-viết. Ông mất năm 1938 ở tuổi 50. A-lếch-xan-đra Cô-lôn-tai hơn ông 17 tuổi và chung sống với ông 13 năm. Bà mất ngày 9-3-1952 khi vào tuổi 80.

Một trong những bài viết của mình, A-lếch-xan-đra Cô-lôn-tai đã kêu gọi giới mình, sao cho người phụ nữ cũng giống như đàn ông, học được cách thoát khỏi sự xung đột tình yêu không phải với những đôi cánh rũ rượi mà với một tâm hồn được tôi luyện.

Cần phải thừa nhận rằng, bà đã đạt được điều đó.

NGUYỄN HỮU DY