QĐND - "Giữa giờ học tại trường công ích ở phố Lò Đúc, bỗng tôi nghe ngoài đường phố tiếng ồn ào như thác lũ tràn về. Một hồi kẻng tan lớp vang lên. Lời truyền khẩu huyên náo: Có biến! Có biến! Việt Minh cướp chính quyền!”. Học trò chúng tôi như ong vỡ tổ ùa ra sân, la hét, chạy thục mạng. Tôi và cậu bạn tên Tiến phóng thẳng lên Bờ Hồ.
Quảng trường Nhà hát Lớn đây rồi. Một biển người chuyển động rập rờn như sóng. Một lá cờ đỏ sao vàng rất lớn, phủ gần kín bao lơn tiền sảnh nhà hát. Tiếng ai đó oai nghiêm phát ra từ loa phóng thanh. Rồi rừng người nhất loạt hô vang: Ủng hộ Việt Minh! Đả đảo phát xít Nhật!... Nước Việt Nam độc lập muôn năm!
 |
Nguyên mẫu Thân “bột” ngày ở Trung đoàn Thủ Đô. (Ảnh chụp lại)
|
Tôi và Tiến cuốn vào dòng thác người Hà Nội, rùng rùng cuốn đi từ Nhà hát Lớn đến Phủ Khâm sai, vòng xuống trại lính khố xanh. Lúc này biển người đã thấy đỏ rực cờ sao, tua tủa gậy gộc, giáo mác, mã tấu sáng loáng. Xe tăng lính Nhật đậu chết gí ở mỗi ngã tư đường phố. Những viên quan Nhật chống gươm nhìn trân trân làn sóng người nổi giận cuộn chảy bất tận…
Sau buổi đó, tôi bị bố tôi mắng cho một trận, rằng sao bé thế dám theo mọi người, nhỡ giáo mác nó chọc vào người thì làm sao… Vì lúc đó tôi mới 12 tuổi mà...".
Tác giả của những dòng hồi ức trên là một người từng được gọi là “cậu bé vô tích sự”, tên thật là Phạm Văn Thẩm, bút danh là Phạm Thắng, nay đã ở tuổi ngoài 80.
Cả gia đình và “cậu bé vô tích sự” lúc đó không ngờ rằng chính không khí ngày mới đó đã đưa ông đến gần hơn với cách mạng. Để rồi, khi trở thành một người hoạt động tình báo ở độ tuổi thiếu niên, ông cũng không ngờ mình hòa nhập và nắm bắt thực hiện công việc nhanh đến vậy.
Ở tuổi ngoài 80, ông một lần nữa khẳng định với chúng tôi, chính Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã cứu gia đình ông và định hướng cuộc đời ông. Bố ông trước cách mạng là một chủ thầu nổi tiếng, sau bị phá sản. Trong trận đói năm 1945, nhà ông cũng chịu muôn vàn khổ cực. Đầu tiên, các chị của ông phải đi bán bánh dạo dọc phố kiếm tiền, nhưng đi cả buổi lại vác rá về không. Bố ông hỏi, sao đi bán cả ngày mà không được xu nào thì các chị kể: Ngoài phố lắm người đói quá. Người ta nhổ cả vào rổ bánh để mình thấy bị bẩn sẽ bỏ đi rồi xông vào cướp… Sau cùng thì không có gì để ăn. Nếu không có thóc của cách mạng thì… Ông bảo: Cách mạng Tháng Tám đã cứu gia đình tôi khỏi phiêu bạt, chết đói. Chính vì vậy, khi cách mạng nổi lên, cả nhà tôi tham gia. Bố làm Trưởng ban Tiêu thổ kháng chiến. Các con tham gia lực lượng vũ trang.
 |
Nguyên mẫu Thân “bột” của tác phẩm “Đội Thiếu niên Tình báo Bát Sắt” cùng vợ tại nhà riêng.
|
Người anh cả tên là Phạm Văn Đặng tham gia lấy kho thóc của Nhật ngày ấy, về sau trở thành một đại tá quân đội. Chị gái Phạm Thị Bích Hạnh là đội viên Đội Thiếu niên Bát Sắt trong hai năm 1947-1948, từng là điệp viên, Tổ trưởng cơ sở bí mật hiệu bánh giò Quốc Việt, 12 Hàng Bún, hy sinh năm 1952.
“Cậu bé vô tích sự” sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã trở thành thiếu sinh quân, từng được biên chế về làm liên lạc viên của Quân y cục Trung ương. Đến những ngày rục rịch kháng chiến toàn quốc, cậu được về thăm nhà, gia đình, mọi người bắt đi tản cư nhưng cậu đã trốn ở lại Thủ đô, tham gia Đội Trinh sát liên lạc của khu phố chợ Hôm. Khi kháng chiến toàn quốc nổ ra, cậu làm liên lạc cho Liên khu 1, Trung đoàn Thủ Đô. Về sau Hà Nội thành lập các quận, Đội Trinh sát liên lạc khu chợ Hôm sáp nhập về lực lượng công an, hoạt động với tên gọi Đội Thiếu niên Bát Sắt. Đội bao gồm các chú bé liên lạc trinh sát của các đơn vị chiến đấu đường phố Mặt trận nam Hà Nội. Cuối năm 1948, một số cơ sở bị vỡ và cũng có thể do hoạt động của thiếu niên không còn phù hợp, cấp trên cho các đội viên đi học, hoặc đi bộ đội theo nguyện vọng. "Cậu bé vô tích sự" đã chọn con đường trở thành bộ đội với tên gọi Phạm Văn Thẩm của Trung đoàn Thủ Đô, tham gia nhiều trận đánh, chiến dịch lớn như: Sông Lô, Tây Bắc 1, Tây Bắc 2, Phố Lu… Xuất ngũ vào năm 1958, ông được tuyển dụng vào làm nhân viên phục vụ tại Phòng hội nghị Trung ương, Phủ Chủ tịch. Sau đó, ông chuyển qua nhiều vị trí công tác ở Bộ Giáo dục và nghỉ hưu từ Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Chúng tôi đã ngồi nói chuyện với “cậu bé vô tích sự” ngày ấy trong ngôi nhà vườn tại quận Cầu Giấy, Hà Nội vào tuần giữa tháng Tám này. Ngôi nhà ở sâu trong ngõ nhỏ, với chiếc cổng mái cong, rêu phong, lá rủ. Tuổi đã cao nhưng ông còn rất minh mẫn. Nếu nghe ông nói chuyện, nhìn thần thái của ông, sẽ dễ nghĩ ông còn đang tuổi khoảng 70, cùng tuổi vợ của ông-bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt, sinh năm 1942. Ông nhớ nhiều chuyện, kể cả câu chuyện nhỏ, rằng tại sao lại gắn với mấy chữ “vô tích sự”. Ông kể: Thời ấy, ngõ Đông Xuyên-phố Huế tôi ở chẳng mấy ai đi giày dép, phần nhiều là guốc gỗ. Đàn bà thì guốc sơn đen, con gái thích guốc cao gót, sơn lòe loẹt. Đàn ông mang guốc mộc, được tiện bằng máy. Tôi cũng đi guốc mộc, khác người ở chỗ guốc tôi tự đẽo bằng gỗ củi nom lam nham chẳng ra sao. Đã vậy, tôi còn đóng cá sắt dưới đế, lúc cao hứng nện xuống hè đường nghe chối tai và ban tối kéo lê xoẹt xoẹt còn tóe ra lửa. Các chị tôi thường hét toáng lên: “Cái thằng vô tích sự kia, có quẳng ngay đôi guốc chết tiệt ấy đi không thì bảo!”…
Ký ức đó hiện ra lúc ông hồi tưởng về gia đình. Và khi nghĩ về thời tuổi trẻ sôi động ông hay trở đi trở lại với quãng thời gian tham gia Đội Thiếu niên Bát Sắt. Tình cảm, nỗi trăn trở, ký ức của ông đã được ông chuyển tải trong một tác phẩm mà mấy chục năm qua đã được các thế hệ thanh thiếu niên yêu quý, với tên gọi: “Đội Thiếu niên Tình báo Bát Sắt”. Với tác phẩm đó, ông là tác giả và cũng là nguyên mẫu của nhân vật Thân “bột”, được tổ chức cài vào làm con nuôi của tên sĩ quan Lampe. Ông viết tác phẩm này ở dạng hồi ký vào năm 1964, dịp Sở Văn hóa Hà Nội phát động viết kỷ niệm kháng chiến chống Pháp. Nó trở thành truyện vào năm 1971 khi Nhà xuất bản Kim Đồng có lời đề nghị ông xuất bản và ra mắt năm 1976. Khi Đội Thiếu niên Bát Sắt được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân tháng 12-2012, tác phẩm của ông tái bản tới lần thứ 7. Và vừa qua, “Đội Thiếu niên Tình báo Bát Sắt” đã được tái bản lần thứ 8.
Giữa phố thị sôi động, ngôi nhà ông vẫn giữ được sự bình an của Hà Nội xưa với những gốc cau ngả bẹ bên những trái chanh tươi. Nền gạch cũ líu ríu những bàn chân nhỏ bé của cháu nội, cháu ngoại và trẻ con láng giềng.
Chia tay ông nơi chiếc cổng nhỏ rêu phong, chúng tôi như vẫn thấy bóng ông lẫn trong ánh đèn vàng và những chiếc lá đang lật qua lật lại cùng gió đa chiều. Hiểu rằng, ông là một trong những người Hà Nội mang vẻ khiêm nhường, lặng lẽ nhưng kiên trì tích tụ và nhiều lúc sục sôi những mạch ngầm tiềm ẩn.
QUỲNH LINH