Để giải quyết thực trạng này, đại diện cơ quan quản lý Nhà nước, các chuyên gia, doanh nghiệp và TCTD đều nhấn mạnh sự cần thiết của các quy định pháp luật đồng bộ, minh bạch, hợp lý liên quan tới việc xử lý tài sản bảo đảm.
Thiếu quy định dẫn tới mâu thuẫn
Phó thống đốc NHNN Nguyễn Kim Anh cho biết, trong 4 năm qua, tính đến thời điểm 31-12-2015, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 493,09 nghìn tỷ đồng nợ xấu (nợ xấu được xử lý năm 2012: 74,68 nghìn tỷ đồng; năm 2013: 87,98 nghìn tỷ đồng; năm 2014: 143,55 nghìn tỷ đồng; năm 2015: 186,89 nghìn tỷ đồng), trong đó nợ xấu do các TCTD tự xử lý chiếm 55,4%, còn lại là bán nợ (bao gồm bán cho Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) và tổ chức, cá nhân khác) chiếm 44,6%. Hiện nay, tỷ lệ nợ xấu có bảo đảm bằng tài sản bảo đảm chiếm hơn 90% tổng nợ xấu. Tuy nhiên, biện pháp xử lý tài sản bảo đảm (bán, phát mại) thu hồi nợ chưa được thực hiện hiệu quả, chỉ đạt khoảng 13,91 nghìn tỷ đồng. Số liệu này cho thấy việc xử lý tài sản bảo đảm thu hồi nợ còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Hiện vẫn còn thiếu các quy định pháp luật, nhiều quy định về xử lý tài sản bảo đảm không phù hợp, không đồng bộ, mâu thuẫn. Thực tiễn áp dụng và thực thi các quy định pháp luật chưa đúng của cơ quan liên quan thi hành pháp luật gây khó khăn và ảnh hưởng lớn đến quá trình xử lý tài sản bảo đảm.
TS Vũ Đình Ánh, chuyên gia kinh tế cho rằng, bản chất kinh tế của quyền xử lý tài sản bảo đảm tại TCTD là quyền đối với tài sản bảo đảm nhằm bù đắp thiệt hại do nợ xấu gây ra. Nhưng khi các TCTD xử lý tài sản bảo đảm thì quan hệ với người đi vay không những thiếu đi sự hợp tác cần thiết, mà có khi còn chuyển sang đối đầu, thậm chí mâu thuẫn xung đột gay gắt… Cũng theo TS Vũ Đình Ánh, quyền xử lý tài sản bảo đảm chỉ được thực thi một cách nhanh chóng, hiệu quả và hiệu lực khi nhận thức về quyền, lợi ích và nghĩa vụ của tất cả các bên liên quan trong quan hệ tín dụng ngân hàng được xác lập một cách đúng đắn. Đồng thời dựa trên những cơ sở pháp lý khả thi, phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam, tiệm cận với thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
Kìm hãm tốc độ xử lý nợ xấu
Theo ông Thiệu Ánh Dương, Tổng giám đốc Công ty AMC Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), việc xử lý nợ xấu chưa đạt được hiệu quả mong muốn một phần là do các TCTD vẫn đang gặp khá nhiều khó khăn trong thu giữ tài sản bảo đảm. Cụ thể, việc xử lý nợ bị chậm hoặc bị trì hoãn do thủ tục kiện tụng và thi hành án phức tạp, kéo dài. Vì vậy, nhiều khách hàng muốn trì hoãn việc trả nợ đã vận dụng cách thức này để yêu cầu ngân hàng phải giải quyết tranh chấp thông qua tòa án, nhằm trì hoãn việc xử lý tài sản bảo đảm của TCTD. Ông Hà Sỹ Vịnh, Phó giám đốc Trung tâm Phòng ngừa và Xử lý rủi ro của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) cũng nhận định, qua thực tế xử lý tài sản bảo đảm, TCTD thường gặp các vướng mắc trong việc thu giữ tài sản bảo đảm, xác định giá bán. Đặc biệt, việc thu giữ tài sản bảo đảm TCTD không thực hiện được khi bên bảo đảm (bên vay) không hợp tác, chống đối. Bên cạnh đó, các TCTD còn gặp khó khăn trong việc thực hiện quyền chuyển nhượng khi xử lý tài sản. Các vướng mắc này khiến các TCTD thường buộc phải khởi kiện, thực hiện theo con đường tố tụng, thi hành án, làm tốn kém về thời gian, chi phí cho TCTD, khiến hệ thống tòa án bị quá tải, ảnh hưởng đến chất lượng và thời gian xét xử. Đây là một trong những lý do khiến nợ xấu còn ở mức cao trong ngành ngân hàng.
Ở một góc nhìn khác, nhiều ý kiến cho rằng, các TCTD không được quyền “tự ý” thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý nợ. Trên thực tế thời gian vừa qua đã có một số vụ việc xử lý tài sản bảo đảm giữa TCTD và người đi vay không minh bạch, công khai gây bức xúc trong dư luận xã hội. Việc tổ chức thu hồi nợ, xử lý tài sản bảo đảm vào những thời điểm không thích hợp, cùng sự tham gia của những đối tượng không rõ thành phần, gây ra những va chạm, những hình ảnh phản cảm. Nghị định 163/2006/NĐ-CP quy định: “Bên giữ tài sản bảo đảm phải giao tài sản đó cho người xử lý tài sản theo thông báo của người này; nếu hết thời hạn ấn định trong thông báo mà không giao tài sản thì người xử lý tài sản có quyền thu giữ tài sản bảo đảm”. Nghị định 163 đã gây ra nhiều cách hiểu khác nhau và gặp khó khăn trong thi hành. Tuy nhiên Điều 300 và 301 của Bộ luật Dân sự 2015 đã có quy định: “Trước khi xử lý tài sản bảo đảm, bên nhận bảo đảm phải thông báo bằng văn bản trong một thời hạn hợp lý về việc xử lý tài sản bảo đảm cho bên bảo đảm và các bên cùng nhận bảo đảm khác. Trường hợp bên nhận bảo đảm không thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm theo quy định trên mà gây thiệt hại thì phải bồi thường cho bên bảo đảm, các bên cùng nhận bảo đảm khác. Trường hợp người đang giữ tài sản không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”. Luật sư Lê Hồng Hiền, Đoàn Luật sư Hà Nội cho rằng: "Pháp luật về giao dịch bảo đảm có quy định bên nhận bảo đảm có thể yêu cầu UBND có thẩm quyền và công an cấp xã giữ gìn an ninh trật tự, bảo đảm công tác xử lý tài sản. Tuy nhiên lại chưa có các quy định cụ thể về trách nhiệm phối hợp hỗ trợ của UBND, các cơ quan công an trong việc tiếp cận xử lý tài sản bảo đảm nên việc tổ chức thu giữ, xử lý tài sản còn nhiều khó khăn". Trên thực tế, trong nhiều vụ việc thu hồi tài sản bảo đảm, đại diện chính quyền xã và công an có mặt tại hiện trường nhưng lúng túng, không rõ mình có quyền hạn gì.
Các chuyên gia trong các ngành tài chính, ngân hàng, pháp luật cho rằng, thời gian tới, Bộ Tư pháp cần khẩn trương phối hợp với NHNN, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công an, Bộ Tài chính và Toà án nhân dân tối cao trình Chính phủ ban hành Nghị định về xử lý tài sản bảo đảm. Bộ luật Dân sự năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 1-1-2017) chưa có quy định cụ thể về việc thu giữ tài sản bảo đảm. Vì vậy, Bộ Tư pháp cần phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan để nghiên cứu, bổ sung hướng dẫn chi tiết về quyền của bên nhận bảo đảm đối với việc xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp bên bảo đảm chống đối, không hợp tác. Việc xử lý hiệu quả tài sản bảo đảm đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật được xây dựng một cách đồng bộ, minh bạch, phù hợp, tôn trọng quyền, lợi ích của cả bên cho vay và đi vay. Đồng thời qua đó tạo lập được khuôn khổ pháp lý cho các bên liên quan, thiết lập được cơ chế, cách thức cho phép các bên lựa chọn được cách xử lý nhanh chóng, thuận tiện, tối đa hóa được giá trị thu nợ từ tài sản bảo đảm, để nền kinh tế vận hành lành mạnh, nhưng vẫn giữ được tính nhân văn. Hệ thống pháp luật này phải được các cơ quan, tổ chức liên quan, các bên tham gia giao dịch thực hiện nghiêm minh.
TRƯỜNG GIANG - TRÀ MY