Sau 35 năm ngày độc lập, chúng tôi gặp Đại tá Cù Hưng Nghĩa – nguyên Đại đội trưởng Đại đội ra-đa 23 (một trong bốn đại đội của Tiểu đoàn 8 ra-đa cơ động theo đội hình quân binh chủng hợp thành, bám sát các mũi tiến công chủ yếu của chiến dịch, kịp thời triển khai lực lượng ở gần sát với phòng tuyến chiến đấu trên hướng Tây – Bắc Sài Gòn. Tôi được nghe ông kể lại ký ức của những trắc thủ ra-đa năm xưa trong ngày đại thắng, cái ngày họ cảm nhận Sài Gòn đã sạch bóng quân thù qua... màn hình quang đài ra-đa.

Đầu tháng 11-1974, Bộ Tư lệnh Ra-đa thành lập Tiểu đoàn 8 theo yêu cầu của trên nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế trên chiến trường. Khi đó, ông Cù Hưng Nghĩa được bổ nhiệm chức danh Đại đội trưởng Đại đội 23 và được phong quân hàm thượng úy. Ông kể:

Ông Cù Hưng Nghĩa

- Ngày 20 tháng 3 năm 1975, Tiểu đoàn 8 bắt đầu cơ động vào chiến trường. Sau hơn một tháng đoàn vượt qua chặng đường gần 2000km với muôn vàn khó khăn như xe xích bị tụt xuống hố sâu dưới ngầm nước A Vương ở Khe Sanh, xe đài ra-đa “dừng” giữa đèo Lò Xo do đường trơn trượt hay khi một bánh xe đài an-ten “rơi” xuống mé cầu gỗ ở Khâm Đức, phía dưới là vực sâu thăm thẳm… để thần tốc vào Nam, tìm trận địa, triển khai khí tài. Đang hành quân thì tin chiến thắng dồn dập báo về: Chúng ta đã giải phóng Tây Nguyên. Vậy là, kế hoạch ban đầu của Tiểu đoàn là triển khai khí tài dọc theo trục đường Đông Trường Sơn để quản lý vùng trời Quân khu 5 và khu vực Tây Nguyên đã phải thay đổi. Ngay lập tức, Bộ tư lệnh Quân chủng đã chỉ thị cho bộ đội ra-đa, cụ thể là Tiểu đoàn 8 phải thần tốc cơ động vào tiếp quản vùng giải phóng và triển khai lực lượng ở gần sát với phòng tuyến chiến đấu trên hướng Tây-Bắc Sài Gòn. Tới chiều 17-4-1975, Đại đội 23 đã triển khai xong khí tài ở Bắc cầu Bà Chiêm (Tây Ninh) cách Sài Gòn tròn 80km.

Do triển khai chiến đấu sớm nhất nên đúng 18 giờ ngày 21-4-1975, Đại đội 23 của Cù Hưng Nghĩa đã được lệnh mở máy phiên đầu tiên. Đây là sự kiện quan trọng ghi dấu việc bộ đội ra-đa chính thức và bất ngờ tung cao cánh sóng lên bầu trời miền Nam thân yêu, tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. “Ngay những vòng quay đầu tiên của an-ten, các trắc thủ òa reo trong sung sướng bởi ra-đa của ta đã phát hiện được mục tiêu. Với hàng chục tốp mục tiêu phát hiện hôm đó có cả tốp máy bay chở tên Tổng thống bù nhìn Nguyễn Văn Thiệu chạy trốn vào lúc 9 giờ 21 phút ngày 21-4-1975” - Đại tá Cù Hưng Nghĩa phấn chấn kể lại.

Đến sáng 28-4-1975 thì tất cả các đại đội ra-đa của Tiểu đoàn 8 đồng loạt mở máy liên tục 24/24 giờ. Cả ngày hôm đó, đơn vị phát hiện được 45 tốp máy bay. Đáng lưu ý là trong ngày này, Phi đội Quyết thắng của không quân ta đã bay từ Phan Rang vào ném bom xuống sân bay Tân Sơn Nhất. Bước sang ngày 29-4, các đại đội ra-đa của Tiểu đoàn 8 vẫn tiếp tục mở máy, quản lý chặt chẽ bầu trời của chiến dịch và phát hiện được 118 tốp mục tiêu. Con số đó nói lên một điều: Ngụy quân, ngụy quyền đang hoảng loạn tháo chạy, thời điểm sụp đổ của chế độ ngụy chỉ còn tính bằng giờ. Tới ngày 30-4-1975, chỉ riêng buổi sáng, Tiểu đoàn 8 đã phát hiện được 53 tốp mục tiêu, trong đó có tới 34 tốp phát hiện được gần như đồng thời ngay trước thời khắc lịch sử 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975. Tốp máy bay phát hiện cuối cùng trên bầu trời Sài Gòn là lúc 11 giờ 21 phút.

Đại tá Cù Hưng Nghĩa xúc động nói:

Ngay sau đó, toàn bộ màn hình quang bỗng dưng trong veo. Linh cảm của người trắc thủ ra-đa mách bảo: Sài Gòn đã giải phóng, miền Nam đã sạch bóng quân thù. Kìm nén niềm vui trong tim, chúng tôi tiếp tục mở máy bảo vệ vùng trời và khẩn trương thực hiện các nhiệm vụ mới...

Bài và ảnh: LÊ XUÂN ĐỨC