Mùa mưa năm 1968, Đại úy Phạm Tựu là trợ lý tuyên huấn thuộc Sư đoàn 308, ở Khe Sanh (Quảng Trị). Xúc động trước tinh thần chiến đấu của bộ đội, giữa một đêm mưa như thác đổ, bên ánh đèn dầu và chiếc bàn ghép bằng những cành cây rừng, anh đã viết nên bài thơ "Mơ chiến công": Ngủ dưới mái tranh, nằm trên nệm cỏ/ Ý chí thép gang chọi cùng mưa gió/ Lốc xoáy từng cơn, nước đổ quanh người/ Mơ chiến công lòng vẫn rực niềm vui. Bài thơ có sức cổ vũ tinh thần các chiến sĩ trẻ, được đăng trên tờ "Lập Công" của Sư đoàn 308, phát hành khắp mặt trận. Đấy là một trong rất nhiều ví dụ về công tác tuyên huấn mà Phạm Tựu đã vừa học, vừa làm ở chiến trường...

Hòa bình được dăm năm, anh Tựu làm Trưởng ban Tuyên huấn Trường Sĩ quan Hậu cần. Hồi ấy, ngoài đào tạo sĩ quan các chuyên ngành hậu cần, nhà trường còn đào tạo sĩ quan chính trị - hậu cần cấp phân đội. Anh Tựu rất chú ý xây dựng ban Tuyên huấn vững mạnh, góp phần thiết thực vào nhiệm vụ của trường từ những điều bình dị nhất. Thí dụ, với một buổi chiếu phim, anh chỉ đạo phải kiểm tra chất lượng kỹ thuật, nội dung và còn tuyên truyền bằng áp phích, đài truyền thanh. Trước khi bật máy, có hướng dẫn khán giả nhận thức và ứng dụng phim, tổ chức bình phim. Với hội diễn nghệ thuật quần chúng, anh chỉ đạo không được chuyên nghiệp hóa, nhưng cũng không dừng lại "nôm na" quá. Anh yêu cầu làm những chương trình truyền thanh mẫu và mỗi năm một lần, tổ chức để các đơn vị dự thi truyền thanh bản tin nội bộ. Một lần, tổ chấm thi cân nhắc đưa chương trình của Tiểu đoàn 3 xuống hạng thấp vì trong đó có nội dung phê phán nhưng thể hiện chưa khéo, dẫn đến đối tượng phản ứng khá gay gắt. Anh Tựu hỏi cả tổ, nắm bản chất sự việc rồi nêu ý kiến: "Chưa khéo nhưng mà nói đúng. Dám nói, dũng cảm đấu tranh chống tiêu cực lúc này đang là vấn đề bức thiết. Chúng ta sẽ góp ý với Tiểu đoàn 3 về phương pháp phê bình. Nhưng chúng ta cũng phải "dũng cảm" khẳng định thành tích của chương trình ấy trước dư luận”.

Đại tá Phạm Tựu.

Anh nói: "Khi đặt một pa-nô chữ, phải xem xét tác dụng ở cả hai phương diện: Tuyên truyền và cổ vũ". Theo anh, hiệu quả tuyên truyền lúc đầu là sự tác động trực giác, là bề nổi. Khi có sự cổ vũ, làm thăng hoa tâm hồn đối tượng, ấy là nó đã gây chuyển biến tư tưởng. Cho nên, khi làm tác phẩm văn hóa cổ động, phải chú ý cả nội dung và hình thức. Hai mặt đều phải tốt.

Một lần, tôi được giao việc nói chuyện về xây dựng văn hóa "tổ ba người" ở nhà trường. Trước khi "lên bục", tôi xin ý kiến của anh. Góp ý xong, anh mở sổ đưa cho tôi bài thơ "Tổ ba người" mà anh viết ở chiến trường năm xưa: "Ba ta cùng hố "chữ Tê" (T)/ Như chim một tổ đi, về có nhau/ Cùng chung điểm tựa gối đầu/ Miếng cơm, điếu thuốc nhường nhau ân tình/ Ba ta vững tựa trường thành/ Ba mũi chúng mình sắc nhọn như dao/ Bốn bề giặc có kéo vào/ Không có đường nào để chúng thoát ra". Hiểu ý anh, đến đoạn nói về xây dựng mối đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể trong học tập, rèn luyện, tôi đã đọc bài thơ này để người nghe liên hệ…

 Kết thúc những buổi chiếu phim ban đêm, anh thường ra giúp đội thu dọn dụng cụ… Mạng truyền thanh nhà trường hoạt động chủ yếu vào lúc 5 giờ và 21 giờ hằng ngày. Bất kể lúc trời oi bức hay giá lạnh, anh đi một vòng quanh doanh trại, vừa xem mọi người nghe đài như thế nào, vừa xem có chiếc loa nào bị "tịt" để nhắc sửa chữa kịp thời…

Cuộc đời làm cán bộ tuyên huấn của anh Tựu phần lớn trong gian khổ, ác liệt chiến trường nên giữa thời bình, anh rất cảm thông trước những thiếu thốn của bộ đội. Tôi còn nhớ giữa một ngày hè năm 1988, cả đơn vị nghỉ trưa, im ắng. Binh nhì N ngồi ăn vụng mía ở giữa vườn. Anh Tựu đi công tác về qua, phát hiện được. Đứng trước người thủ trưởng cơ quan chỉnh tề quân phục, N sợ hãi, mặt thất sắc, trông rất tội nghiệp. Anh Tựu nhẹ nhàng vẫy N tới gần, bảo mang hết số mía đã bẻ về phòng của anh rồi lấy dao tước vỏ, cắt thành từng khẩu để vào chiếc đĩa sứ đặt trên bàn. N làm theo nhưng vẫn run sợ. Đến khi anh Tựu bảo N ngồi ghế đàng hoàng và cùng anh ăn mía; vừa ăn, anh vừa nói chuyện thân tình, cuối cùng chốt lại ý: "Đói cho sạch, rách cho thơm" thì N không cầm nổi nước mắt… Về sau, cậu ta đã trở thành học viên tốt nghiệp loại giỏi tại trường.

Anh Tựu nghỉ hưu năm 1990, vẫn với cái chất "nghề tuyên huấn", anh tích cực công tác xã hội, làm Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và Ủy viên thường vụ Ban chấp hành Hội Người cao tuổi phường Dịch Vọng (Hà Nội). Anh còn làm chủ nhiệm Câu lạc bộ thơ Làng Quốc tế Thăng Long. Anh để lại ấn tượng sâu đậm trong bà con dân phố khi gắn thơ với những việc rất đời thường ở phường. Bà con vẫn quý mến gọi anh là "Anh Tựu tuyên huấn”.

Bài và ảnh: PHẠM XƯỞNG