Giúp người dân bước qua hủ tục

Sùng Thị Nhánh, người dân tộc Mông, được chồng đưa xuống Trạm y tế để thăm khám thai. Mặc dù đang mang bầu bé thứ tư nhưng Nhánh vẫn chưa hết ngại ngần, chờ bằng được y sĩ Lò Thị Thanh để thăm khám. Không phải Trạm y tế hết nhân viên nhưng Nhánh nói, Nhánh chỉ quen y sĩ Thanh khám nên y sĩ Lò Thị Thanh phải lùi lịch hẹn một thai phụ khác để khám cho Nhánh. Chị chia sẻ: “3 đứa trước của Nhánh đẻ tại nhà, đứa thứ ba khó sinh nên nuôi vất vả lắm. Đến đứa thứ tư, vận động mãi Nhánh mới chịu xuống Trạm y tế thăm khám thai định kỳ. Nhánh xấu hổ, không muốn ai thăm khám, ngoài tôi”.

Chị Lò Thị Thanh tâm sự, đồng bào Mông vốn có những kiêng kỵ từ lâu đời. Họ tin rằng phụ nữ khi sinh nở là điều thiêng liêng và riêng tư tuyệt đối, "không ai được chạm vào", "không ai được nhìn thấy", người duy nhất có thể nhìn thấy là người chồng. Bởi vậy, từ bao đời nay, những sản phụ nơi đây đã quen với việc sinh con một mình tại nhà, người thân bên cạnh chỉ có thể là bà đỡ hoặc mẹ chồng, tuyệt đối không có người lạ được vào. Sinh con xong cũng chỉ cắt dây rốn bằng con dao hơ qua lửa. Vì thế, chuyện khám thai, khám phụ khoa là một điều hết sức xa lạ. Những hủ tục nơi đây đã ăn sâu vào máu thịt, nên với phụ nữ vùng cao, sinh nở là một hành trình đơn độc và đầy nguy hiểm. Mặc dù các nhân viên y tế đã tuyên truyền, vận động, chia sẻ rất nhiều nhưng cũng rất ít sản phụ chịu đến thăm khám. Thi thoảng có sản phụ đến Trạm y tế rụt rè hỏi: “Y sĩ Thanh có đây không?”. Nếu hôm đó y sĩ Thanh đi khám dưới bản thì chắc chắn sản phụ đó sẽ quay về, không để ai khác khám, vì “y sĩ ở Trạm nhìn thấy, rồi ngày nào chúng tôi cũng gặp y sĩ, như vậy sẽ xấu hổ lắm”.

Y sĩ Lò Thị Thanh trong một lần đi thăm khám cho người dân.

Để được người dân tín nhiệm như thế, y sĩ Lò Thị Thanh đã phải vượt qua rất nhiều khó khăn, có những lúc tưởng buông xuôi, nhưng bởi lòng yêu nghề, sự trắc ẩn của một người mẹ, của nhân viên y tế, chị lại tiếp tục bám trụ với công việc tại Trạm. Chị kể: “Năm 2007, khi mới nhận công tác được 3 ngày, tôi đã phải vào bản đỡ đẻ. Tôi không thể quên được hôm đó, vì đây là một ca sinh nguy cấp, sản phụ bị rau cầm tù-một biến chứng sản khoa nguy hiểm, nếu không xử lý kịp có thể gây mất máu cấp, dẫn đến tử vong. Con đường đến nhà sản phụ toàn dốc dựng đứng, trơn trượt, ngồi sau xe máy của chồng sản phụ, tôi chỉ biết nhắm mắt, phó mặc. Đến nơi, tôi xuống xe mà hai chân vẫn run, chỉ thốt được một câu: “Mẹ ơi, con vẫn sống”. May mắn, tôi đến kịp nên ca đỡ đó cứu được cả mẹ và con. Cũng từ đó, nhiều gia đình đã có niềm tin, cởi mở hơn với nhân viên y tế. Ngày qua ngày, trong sân Trạm y tế từ đó cũng có nhiều người chồng ngồi chờ vợ khám thai hơn. Những người chồng cũng dần đồng hành với vợ trên con đường vượt cạn cùng các nhân viên y tế”.

Thời gian đầu về nhận công tác tại Trạm y tế, những con dốc hiểm trở, những ngôi nhà mà chỉ có thể đi bộ mới tới được chưa bao giờ làm chùn bước chân y sĩ Lò Thị Thanh. Điều chị lo lắng nhất, đó chính là rào cản ngôn ngữ. Chị như lạc giữa một thế giới khác, không hiểu người dân nói gì, cũng không biết phải truyền đạt kiến thức cho họ như thế nào. Chị nghĩ, nếu không nói được, không hiểu được ngôn ngữ của họ làm sao có thể thuyết phục họ tin tưởng để vượt qua hủ tục mà đến trạm y tế thăm khám. Và, như một cán bộ dân vận thực thụ, chị tới từng nhà sản phụ thăm hỏi, học tiếng Mông từ những câu chuyện bên bếp lửa, từ những lần theo họ lên nương để thuyết phục họ đến trạm y tế sinh con, chị học bằng sự tận tâm, bằng tình thương của một lương y đối với những người phụ nữ đang phải chấp nhận “vượt cạn” một mình...

“Bỏ cuộc, sản phụ sẽ thế nào?”

18 năm qua, với câu hỏi đó, sự trăn trở đó đã đưa người y sĩ dân tộc Thái vượt qua được nỗi nhớ nhà, nhớ con, vượt qua những cung đường đi khó khăn, những cuộc điện thoại dựng dậy lúc nửa đêm để đến với người bệnh. Hai con chị vẫn ở tỉnh Điện Biên cùng ông bà. Chị thì ngày nào việc cũng quấn lấy người nên 2-3 tháng mới về Điện Biên thăm con được một lần. Chồng chị đã có lần cáu kỉnh khi xót thương vợ: "Em cứ đâm đầu vào làm gì? Đang ngủ nửa đêm lại vùng dậy đi. Có ai tuyên dương em đâu?". Chị lặng đi, phút chốc vừa thương mình, vừa thương chồng, thương con, chị chỉ muốn bỏ lại tất cả để gói ghém trở về với gia đình. Nhưng giây phút đó qua rất nhanh, chị bình tâm lại, nói nhỏ với chồng: “Người dân ở đây vốn đã thiệt thòi nhiều, nếu chỉ vì vất vả mà mình từ bỏ công việc thì họ biết bám víu vào đâu? Mình không kiên trì thì không thể mong họ thay đổi, cuộc sống của họ mãi vẫn vậy. Công sức nhân viên y tế bao năm qua đổ sông đổ bể hết”.

Nhờ vậy, gần 70% phụ nữ mang thai trong điểm số 2 Trạm Y tế xã Dào San giờ đây đã biết đi khám thai định kỳ. Những khái niệm từng xa lạ với họ như: Siêu âm, khám thai, sinh con tại trạm, dinh dưỡng thai kỳ... đã dần trở nên quen thuộc, được nhắc đến trong những cuộc trò chuyện của các thai phụ. Không chỉ làm tốt công tác khám thai, đỡ đẻ, điểm số 2 Trạm Y tế xã Dào San còn thường xuyên tổ chức các buổi trò chuyện ở nhà văn hóa bản và y sĩ Thanh luôn được lựa chọn là người tuyên truyền. Tại mỗi buổi nói chuyện, y sĩ Thanh đều hướng dẫn các bà mẹ nhận biết về những dấu hiệu nguy hiểm trong thời kỳ mang thai, chia sẻ các kiến thức về dinh dưỡng để nuôi con khéo, con khỏe, mẹ khỏe... Y sĩ Lò Thị Thanh khoe: “Mừng nhất là trong các buổi tuyên truyền của tôi đã có sự tham gia của nhiều người chồng. Đó thực sự là sự thay đổi lớn trong nhận thức về vấn đề sinh sản đối với phụ nữ”.

Trong số những người chồng tham gia các buổi chia sẻ về kiến thức đó có anh Ma A Phứ (35 tuổi). Vợ anh Phứ năm 2010 "vượt cạn" an toàn tại Trạm y tế nhờ sự kiên trì thuyết phục của y sĩ Lò Thị Thanh. 15 năm sau, vợ anh bất ngờ có bầu. Không chút đắn đo, anh đưa vợ đến gặp y sĩ Lò Thị Thanh để nhờ chị giúp và chăm sóc cho vợ con anh được mạnh khỏe. Còn trường hợp Giàng A Lùng (22 tuổi), đứa con đầu của vợ chồng anh được sinh tại nhà. Do khi vợ Lùng mang thai không bảo đảm dinh dưỡng nên đứa bé sinh ra rất yếu ớt, nuôi rất vất vả. Khi vợ Lùng mang thai con thứ hai, y sĩ Lò Thị Thanh đã thuyết phục anh hằng tháng đưa vợ đến Trạm y tế để được chăm sóc từ những ngày đầu thai kỳ. Không những thế, chị còn hướng dẫn vợ chồng Lùng bổ sung dinh dưỡng, chăm sóc đúng cách đối với đứa con đầu, đến nay, cậu bé đã khỏe mạnh lên rất nhiều.

Giọng nói trầm lại, y sĩ Lò Thị Thanh chia sẻ: “Ở nơi đây vẫn còn rất nhiều trường hợp lấy chồng sớm và có con sớm. Điều đó rất nguy hiểm cho thai phụ. Bởi vậy, chúng tôi phải nắm bắt để vận động họ thăm khám thường xuyên tại Trạm y tế nhằm tránh những biến chứng nguy hiểm cho mẹ và con nếu có bất thường”.

18 năm qua, y sĩ Lò Thị Thanh không bỏ lỡ một cuộc gọi nào từ gia đình bệnh nhân, không từ chối một ca sinh nào, dù đường xa hay khó đi đến mấy. Lặng lẽ và bền bỉ, y sĩ Lò Thị Thanh đã góp phần xây dựng niềm tin của đồng bào dân tộc thiểu số nơi biên cương Tổ quốc vào nhân viên y tế.

Phó trạm trưởng điểm số 2 Trạm Y tế xã Dào San, y sĩ Đào Hồng Nhật, chia sẻ: "Suốt 18 năm qua, tôi thật sự cảm phục tinh thần, trách nhiệm, sự tận tụy của y sĩ Lò Thị Thanh. Có những ngày mưa to gió lớn, đường đi trơn trượt nhưng chị Thanh vẫn cố gắng tìm mọi cách để đến nơi khi nhận được cuộc gọi của người nhà sản phụ. Bởi vậy, người dân nơi đây rất tín nhiệm chị Thanh. Cũng nhờ có chị tận tình, chịu khó, thường xuyên nắm bắt tình hình, vận động thai phụ có dấu hiệu đẻ khó lên bệnh viện để sinh con nên đã hơn 10 năm nay, tại điểm số 2 Trạm Y tế xã Dào San không có ca tử vong mẹ. Chính sự nỗ lực này đã góp phần làm tăng tỷ lệ bà mẹ mang thai đến khám thai, theo dõi sức khỏe tại trạm y tế. Đây là biểu tượng rõ nhất của tinh thần trách nhiệm, say mê công việc của chị Thanh cũng như đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế tuyến cơ sở đang ngày đêm nỗ lực vượt qua nhiều thách thức, vất vả để làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, nhất là nhân dân vùng cao".

Bài và ảnh: DIỆP CHÂU

* Mời bạn đọc vào chuyên mục "Cuộc thi viết "Những tấm gương bình dị mà cao quý lần thứ 17" xem các tin, bài liên quan.