 |
C.Mác . Ảnh Internet |
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do C.Mác và Ph.Ăng-ghen viết được xuất bản lần đầu tại Luân Đôn (Anh) vào tháng 2 - 1848. Công trình này có thể được xem như sự kết tinh các nghiên cứu của hai ông về vai trò của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, tính tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự ra đời của chủ nghĩa cộng sản với tính cách là sự nghiệp giải phóng hoàn toàn xã hội khỏi áp bức, bóc lột.
Thời đại Tuyên ngôn và thời đại ngày nay
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời cách đây vừa tròn 160 năm (1848 - 2008), trong bối cảnh lịch sử khác hẳn với thời đại ngày nay. Nhiều nhà sử học đã viết: ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa châu Âu và Bắc Mỹ, công nhân phải làm việc tới 15, 16 giờ. Nữ công nhân dệt ở Anh chỉ có tuổi thọ trung bình là 20 năm! Điều này cho thấy vì sao những phương án cách mạng bạo lực, các biện pháp chuyên chính được đề cập trong Tuyên ngôn lại được những người lao động và những trí thức dân chủ cách mạng đón nhận một cách nhiệt thành.
Đúng như Ph.Ăng-ghen đã nói: "Tuyên ngôn đã có cuộc sống riêng của nó". Từ khi ra đời đến nay, Tuyên ngôn đã trở thành cơ sở lý luận và ngọn cờ đấu tranh của phong trào cộng sản, công nhân và phong trào giải phóng dân tộc trên khắp các châu lục, dưới những hình thức và khẩu hiệu khác nhau. Michel Vadle đã viết: "Sức sống của một tư tưởng được tính bằng con số những cuộc tranh luận và những cuộc đấu tranh mà nó sáng tạo ra. Về mặt này, chủ nghĩa Mác thật là một điều đáng được ước ao". Đánh giá này là hoàn toàn thích hợp với Tuyên ngôn. Không có chủ nghĩa Mác, không có Tuyên ngôn, thì không thể có chủ nghĩa Lê-nin, không có Cách mạng tháng Mười, không có chiến thắng của Liên Xô và các nước Đồng minh trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai chống lại sự thống trị của chủ nghĩa phát-xít, không có phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La-tinh, trong đó có thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giành và giữ độc lập dân tộc.
Viện ra những câu chữ nào đó không còn phù hợp với bối cảnh lịch sử để phủ nhận Tuyên ngôn, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin là không công bằng, không hiểu bản chất cách mạng và khoa học của Tuyên ngôn, của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Có ba thời kỳ cơ bản của một tiến trình cách mạng: thời kỳ tập hợp lực lượng, chuẩn bị (về lý luận và tổ chức) cho cách mạng, thời kỳ cách mạng (đấu tranh giành chính quyền) và thời kỳ xây dựng nhà nước và xã hội mới. Tuyên ngôn chủ yếu đề cập tới thời kỳ thứ nhất. Tuy nhiên, nhiều tư tưởng của Tuyên ngôn vẫn đang soi sáng cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức.
Nghiên cứu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, ngày nay chúng ta không thể tìm thấy những chỉ dẫn trực tiếp của các ông cho những vấn đề cụ thể mà cuộc sống đang đặt ra, mà phải dựa trên phương pháp luận mác-xít, nói như V.I.Lê-nin: Chúng ta "phải biết lắng nghe sự mách bảo của cuộc sống", phải kiên định cách tiếp cận dựa trên lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, hình thái kinh tế - xã hội, chủ nghĩa nhân đạo và lý tưởng cộng sản, đặc biệt là từ tổng kết thực tiễn sâu rộng trong nước và quốc tế để tìm ra các giải pháp thích hợp.
Từ Tuyên ngôn nhìn lại chủ nghĩa xã hội sau sự kiện sụp đổ, cải cách và đổi mới
Sự kiện "cải tổ", "cải cách", "đổi mới" ở các nước xã hội chủ nghĩa từ thập kỷ 70 thế kỷ XX đến nay, đặc biệt là sự sụp đổ một bộ phận quan trọng của hệ thống xã hội chủ nghĩa (1989 - 1991), đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa trên cả hai phương diện - lý luận và thực tiễn.
Ở nước ta, Cương lĩnh 1991 của Đảng ta đã chỉ ra những sai lầm trong đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những năm 70, 80 thế kỷ XX. "Đảng ta đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần...". Về chủ nghĩa tư bản, Cương lĩnh nhận định: "Trước mắt, chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển kinh tế... Tuy vậy chủ nghĩa tư bản vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công...". Ngày nay, đọc lại Tuyên ngôn chúng ta thấy, không ít những quan điểm của Mác, Ăng-ghen vẫn đang được cuộc sống xác nhận, nhất là về toàn cầu hóa. Tuyên ngôn viết: "Giá rẻ của các sản phẩm của giai cấp ấy (tư sản) là những trọng pháo bắn thủng tất cả những bức tường thành và buộc những người dã man bài ngoại ương ngạnh nhất cũng phải hàng phục", "do việc bóc lột thị trường thế giới, giai cấp tư sản đã làm cho sự sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước giàu có tính chất thế giới", "những mối quan hệ toàn diện, sự phụ thuộc toàn diện đối với nhau giữa các dân tộc, đang phát triển, thay thế cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và của các dân tộc vẫn tự cung, tự cấp". Những chỉ dẫn về quy luật phát triển chung của nhân loại trong Tuyên ngôn dường như vẫn đang soi sáng cho tư duy lý luận của chúng ta về kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày nay.
Có thể nói, hai vấn đề cơ bản nhất được điều chỉnh lại trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta trong Cương lĩnh 1991 đã được cụ thể hóa trong đường lối của Đảng ta từ Đại hội VI đến nay, là chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa... và đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế". Một trong những kinh nghiệm cơ bản rút ra từ trên nửa thế kỷ xây dựng chủ nghĩa xã hội đã chỉ ra rằng, các thế lực đế quốc luôn luôn áp dụng chiến lược cô lập, lật đổ các nước xã hội chủ nghĩa, song chúng không thể làm được việc đó nếu chúng ta nhận thức được rằng trong thời đại ngày nay, không một quốc gia riêng lẻ nào, một khu vực nào, một hệ thống quốc tế nào có thể tự cô lập để xây dựng một chế độ xã hội riêng biệt cho mình. Xã hội xã hội chủ nghĩa chỉ có thể ra đời, tồn tại và phát triển thích ứng với một hệ thống quốc tế đa dạng, phức tạp. Đồng thời, xã hội đó phải kế thừa các giá trị vật chất và tinh thần của nền văn minh mà nhân loại đã đạt được.
Tư tưởng của Tuyên ngôn với công cuộc công nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước
Trước Tuyên ngôn chưa có một quốc gia nào được kiến lập đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Tuyên ngôn mới chỉ là dự án, nói đúng hơn là ý tưởng về một xã hội tương lai. Điều đó nói lên rằng, đi theo con đường của Tuyên ngôn, chính đảng của giai cấp công nhân phải tự mình giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn chưa từng có tiền lệ.
Đường lối đổi mới của Đảng ta đã thể hiện một cách sáng tạo nhiều nguyên lý của Tuyên ngôn, những kinh nghiệm lịch sử của chủ nghĩa xã hội hiện thực vào điều kiện Đảng ta đã trở thành đảng cầm quyền, thời đại toàn cầu hóa, thời đại mà cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang phát triển như vũ bão.
Thách thức lớn lao mà Đảng và Nhà nước ta, nhân dân ta phải vượt qua đó là đồng thời phải giải quyết nhiều nhiệm vụ có tính lịch sử, đó là: Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại, giữ được lợi thế cạnh tranh trong quá trình hội nhập, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội; Xây dựng nền chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa với nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng ta lãnh đạo; Phát triển nền văn hóa dựa trên truyền thống dân tộc và chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại; Bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình", lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
V.I.Lê-nin đã nói: "Một trong những sai lầm lớn nhất và nguy hiểm nhất của những đảng viên cộng sản... chính là quan niệm rằng sự nghiệp cách mạng có thể hoàn thành chỉ riêng với bàn tay của những người cách mạng thôi... Chỉ khi nào đội tiên phong không xa lìa quần chúng mà mình lãnh đạo... Nếu không liên minh với những người không phải đảng viên cộng sản trên tất cả mọi lĩnh vực hoạt động khác nhau, thì đừng hòng nói đến một thành công nào trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản cả".
Trong bối cảnh Đảng ta đã trở thành đảng cầm quyền, nhà nước thuộc về nhân dân, các mâu thuẫn xã hội được điều chỉnh dựa trên nguyên tắc pháp quyền và tình đoàn kết dân tộc, những chỉ dẫn của V.I.Lê-nin có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thực hiện đại đoàn kết dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước của mọi người, xây dựng và phát triển giai cấp công nhân bảo đảm lợi ích của nông dân, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức - những lực lượng nòng cốt của cách mạng - là nhiệm vụ có tính sống còn của công cuộc đổi mới.
Khác với mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội, với hai thành phần kinh tế duy nhất quốc doanh và tập thể, trong nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, việc bảo đảm công bằng xã hội, quyền và lợi ích của các giai tầng xã hội không thể thực hiện trực tiếp như trong mô hình cũ mà phải điều tiết thông qua các thể chế, chính sách, pháp luật. Đây là một thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước ta trong bối cảnh đổi mới, hội nhập quốc tế.
Xây dựng giai cấp công nhân ngày nay trước hết cần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ, nhất là những người đang làm việc trong các khu công nghiệp tập trung; phải đi từ giáo dục, đào tạo thế hệ người lao động kế tiếp và đặc biệt là nâng cao vai trò, vị thế của tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp.
Bảo đảm lợi ích của giai cấp nông dân trước mắt cần bảo đảm quyền và lợi ích của bộ phận nông dân phải giao lại ruộng đất cho nhà nước, bảo đảm công ăn việc làm cho bộ phận người lao động này trên cơ sở đào tạo nghề, bố trí lao động thích hợp.
Trong nền kinh tế hiện nay, vai trò của đội ngũ trí thức khác với những thời kỳ lịch sử trước đây, họ là lực lượng sản xuất (quản lý, lao động) trực tiếp, ngày càng giữ vị trí quan trọng trong tiến trình xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức. Trong xã hội ta, trí thức là một mắt xích quan trọng trong liên kết kinh tế giữa nông dân, doanh nghiệp với thị trường, là cầu nối giữa dân tộc với quốc tế. Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống.
Giá trị cao cả, bền vững của Tuyên ngôn, của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chính là ở chỗ, lý luận đó trong khi ghi nhận vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản, văn kiện này đã chỉ ra sự vận động xã hội tất yếu sẽ dẫn đến sự phủ định chủ nghĩa tư bản trên hai phương diện kinh tế và đạo đức. Thay cho xã hội đó là chủ nghĩa cộng sản, là xã hội không còn áp bức, bóc lột, con người được phát triển toàn diện theo nguyên tắc: "Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người".
Cao Đức Thái
(Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh)