Đến với biển từ lịch sử
"Vươn ra biển lớn" có nghĩa là gì? Với chức năng định vị tọa độ, thuật ngữ đó hàm nghĩa chúng ta (dân tộc Việt Nam) hoặc giả vẫn đang ở trên đất liền, hoặc giả đang ở trên sông, hay cùng lắm là mới ra “biển nhỏ”. Thuật ngữ đó có nghĩa là Việt Nam hiện nay vẫn chưa thực sự ra biển lớn. Như 20 năm trước đây, và cũng như hàng ngàn năm trước, xét theo tọa độ “tĩnh”, chúng ta vẫn chưa ra khơi, vẫn đang ở trên bờ.
 |
PGS. TS Trần Đình Thiên |
Nhưng cần rõ hơn thực chất vấn đề. Khẩu hiệu “vươn ra biển lớn” hôm nay có nghĩa là Việt Nam vẫn đang “đứng trước biển”, đúng như tên gọi cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Mạnh Tuấn viết cách đây mười mấy năm, cổ động cho một cuộc "ra khơi".
Một dân tộc - biển, trong hàng ngàn năm và sau hàng ngàn năm, vẫn trong tư thế đứng trước biển - đó chính là vấn đề. Tại sao vậy?
Phải thừa nhận rằng chúng ta chưa phải là một cường quốc biển, chưa phải là dân tộc chinh phục và ngự trị đại dương theo nghĩa đầy đủ của từ. Xét trong tầm với năng lực, biển đối với chúng ta vẫn chỉ là biển gần bờ, biển của phương thức khai thác "mò cua bắt ốc". Chúng ta tiến ra biển, chinh phục và khai thác nó chủ yếu dựa vào con thuyền gỗ, cánh buồm nâu và mành lưới thủ công.
Vì thế, dẫu là “biển bạc”, qua nhiều thế kỷ, biển vẫn chưa làm cho mấy người Việt Nam trở thành giàu thật sự. “Biển bạc” vẫn chưa đưa nước Việt Nam thoát khỏi trình độ một quôc gia “đang phát triển thu nhập thấp”. Thậm chí, nếu tạm bỏ phần lãng mạn đi, dù vẫn nuôi người, cung cấp các sản vật cho con người thì cho đến nay, biển vẫn là nơi chứa đựng nhiều rủi ro, có nguy cơ mang lại đói nghèo cho người dân biển.
Về xu hướng lịch sử, người Việt Nam luôn tiến về phía biển, mở ra hướng biến. Nhưng về thực chất, tổ tiên chúng ra lại luôn dừng lại ở ven bờ. Khái niệm "dừng lại ở ven bờ" không chỉ là một hình ảnh biểu đạt đúng nghĩa đen của vấn đề - sự dừng bước trong không gian của quá trình phát triển.
Từ xa xưa, đã có những người Việt sống ở đảo xa. Bằng sự hiện diện ở Hoàng Sa, Trường Sa, Bạch Long Vĩ, họ khẳng định chủ quyền quốc gia ở những mảnh đất này. Nhưng dù ở giữa biển khơi, phương thức sống của họ vẫn là phương thức “ven bờ”. Có chăng, quá trình mở rộng không gian sống, bằng việc “vươn ra biển”, tổ tiên chúng ta chuyển lối kiếm sống “ở mom sông”, bổ sung thêm cho nó phương thức "đánh bắt ven bờ (biển)". Chỉ chỉ là từ mom sông ra ven biển, với bản chất và trình độ hầu như không thay đổi. |
 |
Từ con thuyền gỗ, có thể ra được đại dương? |
Trong tâm thức và cả trong sự tồn tại thực tế, đối với người Việt, biển là nơi kiếm sống (chủ yếu ở cấp độ sinh tồn tối thiểu). Biển ít thực sự là và cũng không chủ yếu là đối tượng của những nỗ lực khám phá và chinh phục để phát triển. Khát vọng biển không phải là "vượt đại dương", tìm những bờ bến mới như Ma gien lăng hay Cô lông bô đã làm, mà chỉ là mong ước "biển khơi tôm cá đầy ghe" .
Để ra biển lón, phải cần nhiều thứ. Không chỉ mơ ước lớn mà phải có cả tầm nhìn lớn, đủ để có ý chí vượt qua cái ao nhà “dù trong dù đục” đầy kỷ niệm. Và quan trọng hơn, phải có một tư duy mới, dựa trên nền những phương tiện, công cụ và công nghệ mới.
Thuyền nan không thể ra khơi. Lưới nhỏ không thể bắt cá lớn. Và nếu chỉ lưới thôi thì cũng chỉ cá thôi. Trong khi biển còn lớn lao, giàu có hơn nhiều. Không có tàu lớn, lưới lớn, công nghệ cao và khát vọng chinh phục thì dù yêu biển bao nhiêu, dù gan dạ bao nhiêu, chúng ta vẫn cứ sẽ mãi đứng trên bờ, không thể bơi ra biển lớn.
Biển và tầm nhìn đại dương
Trước hết, hãy kể đến nguồn lợi truyền thống của biển - nguồn lợi thủy sản. Một chuyên gia nghiên cứu thủy sản Việt Nam, người đã lăn lộn nhiều năm trong việc tìm cách khai thác nguồn lợi hải sản, nói với tôi rằng các cuộc thử nghiệm và kinh nghiệm đều khẳng định không khó khăn gì trong việc mỗi năm kiếm vài triệu USD cho mỗi km bờ biển chỉ bằng việc nuôi trồng thủy sản trên biển gần bờ (xin lưu ý: trên biển gần bờ) mà người dân bình thường có thể làm được (không tính nuôi trồng thủy sản trong đất liền và không kể nguồn lợi do đánh bắt), chưa cần công nghệ gì thật cao siêu.
 |
Từ văn minh lúa nước, bước ra biển lớn, Việt Nam có thể cất cánh? |
Việt Nam có hơn 3.000 km bờ biển. Nghĩa là mỗi năm, chúng ta có thể thu 5-6 tỷ USD riêng từ việc nuôi thủy sản trên biển gần bờ. Con số này tương đương với 8-10% GDP năm 2006 của nước ta. Có thể con số này là khiêm tốn, thậm chí rất khiêm tốn, song nó giúp chúng ta thấy rõ hơn quy mô lợi ích không nhỏ nằm của biển đang nằm trong tầm tay Việt Nam.
Nếu cộng với nguồn lợi khai thác theo kiểu đánh bắt truyền thống từ biển, cộng với nguồn lợi nuôi trồng thủy sản ven biển - trên bờ, con số đó lên đến hàng chục tỷ đô la. Đó là con số chưa tính đến sự hỗ trợ của công nghệ, kỹ thuật cao và nguồn tài chính lớn.
Bên cạnh nguồn lợi thủy sản, biển còn chứa đựng nhiều tài nguyên biển khác mà đến nay, nhiều thứ trong số đó vẫn chưa định giá được. Đó là tài nguyên dầu khí, là vàng, là muối, là mangan và các loại quặng quý khác.
Ở một tầm mức khác, lợi ích của biển Đông còn là lợi ích của các tuyến vận tải biển, của đường hàng không trên biển tại một vùng đang trở thành trung tâm tăng trưởng kinh tế mạnh nhất thế giới. Người ta tính rằng sẽ có tới 2/3 khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của thế giới phải đi qua vùng biển này trong 5-10 năm tới. Số lượng các nhà kinh doanh và khách du lịch đi qua đây cũng sẽ tăng vọt. Du lịch và vận tải hành khách qua biển Đông - bằng tàu thủy và bằng máy bay - sẽ bùng nổ. Điều đó tạo cho biển Đông những lợi ích khổng lồ.
 |
Doanh nhân - lực lượng quan trọng để hướng đến không gian toàn cầu |
Để ra biển lớn, rõ ràng không thể với số ngư cụ và sức trần hiện có của người ngư dân. Phải có những năng lực mới. Năng lực đó, mấy nghìn năm chúng ta chưa tạo ra được. Nghĩa là công việc là không dễ dàng, không thể hoàn thành trong ngày một ngày hai. Trong khi, nhiệm vụ đặt ra là phải nhanh chóng tạo ra, làm chủ và khai thác những năng lực mới đó.
Chiến lược biển đầu tiên của Việt Nam chính là sự mở màn cho chương mới về biển cả, về tương lai của nước Việt Nam. Với việc triển khai chiến lược biển, trước hết phạm vi không gian chiến lược được mở rộng.
Cho đến nay, sự quan tâm chiến lược trong việc giải quyết các vấn đềphát triển chủ yếu gioiứ hạn ở đất liền. Nội dung biển của chiến lược công nghiệp hóa trước đây chủ yếu gọi lại trong ngành đánh bắt thủy sản và khai tác một vài thứ tài nguyên (ví dụ: dầu - khí, muối) - và cũng chỉ dừng lại ở cấp độ "thô".
Ngày nay với tầm nhìn chiến lược biển, không gian chiến lược được mở rộng thêm 1.000.000km2 chủ quyền trên biển (trong khi đó diện tích đất liền chỉ bằng 1/3 số đó), cộng thêm quyền tiếp cận đại dương voiứ tư cách là không gian, tài sản chung bao la của loài người.
Đối với nước ta đó không chỉ là tầm nhìn biển Đông mà còn hàm nghĩa là tầm nhìn đại dương toàn cầu. Không gian mở rộng đó, trong điều kiện khoa học - kỹ thuật phát triển nhanh, bao hàm sự thay đổi đáng kể khái niệm tài nguyên biển: Số lượng, khối lượng tài nguyên tăng lên, cơ cấu tài nguyên thay đổi.
Sự giàu có của biển không chỉ giới hạn là ở nguồn lợi thủy sản và mấy mỏ dầu khí. Đó còn là tài nguyên không gian biển (bao gồm bầu trời biển, mặt nước biển, lòng biển và dưới biển) với tất cả sự phong phú của các loại của cải mà để phát hiện và khám phá ra các công dụng của nó, cần phải có một năng lực công nghệ và tài chính hùng mạnh hơn gấp bội. |
Nhnưg tầm vóc của chiến lược trong tầm nhìn biển - đại dương không giới hạn chỉ ở không gian địa lý của chiến lược. Nó còn phản ảnh một tầm tư duy mới trong chiến lược phát triển đất nước: Đó là tư duy vượt thoát khỏi "tư duy đất liền", mở ra "tư duy đại dương" trong thời đại kinh tế mở và hội nhập toàn cầu.
Tư duy mới, tầm nhìn đại dương, sự khôn ngoan dân tộc cần phải tập trung để giải quyết vấn đề này. Rất may, công việc đó đang được khởi động một cách bài bản, có tổ chức và với quyết tâm vươn ra biển lớn đã tích nén trong suốt mấy nghìn năm lịch sử. Chiến lược biển đầu tiên của Việt Nam chính là sự mở màn cho chương mới về biển cả, về tương lai của nước Việt Nam.
PGS.TS Trần Đình Thiên (Viện Kinh tế Việt Nam) - báo Nông thôn Ngày nay